Bản án 58/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 58/2019/HS-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị R, sinh năm 1982, tại Khánh Hòa; ĐKNKTT: Phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở: đường L, phường T, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn) 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn A (Chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1954; chồng: Trần Minh H, sinh năm 1975; bị cáo có 02 con lớn 16 tuổi, nhỏ 10 tuổi; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 23/10/2018, bị Công an phường B, thành phố Tuy Hòa xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/6/2019 tại phường T, thành phố T. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1945; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Hồng A, sinh năm 1976; Cùng địa chỉ: đường N, phường B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. Ông A vắng mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Ông Phạm Đình H, sinh năm 1970; Địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 05 giờ 30 phút ngày 10/3/2019, Nguyễn Thị R (đã bị xử phạt hành chính) điều khiển xe mô tô biển số 78K3-nnnn đi trên đường H theo hướng Nam-Bắc thì thấy nhà kho của khách sạn L không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. R dừng xe rồi đi bộ băng qua đường, đi vào nhà kho lấy trộm 01 máy bơm nước màu xanh; 03 cục nóng máy điều hòa và 03 quạt treo tường màu xám thì bị ông H nhân viên bảo vệ khách sạn bắt quả tang.

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản TP. Tuy Hòa kết luận: 03 quạt treo tường trị giá 450.000đồng còn những tài sản khác không định giá vì không cung cấp đủ thông tin.

Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 12/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị R về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Thị R đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố và thừa nhận bị cáo lấy tài sản trong khu vực của khách sạn L là sai nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị hại Đặng Hồng A có đơn xin xét xử vắng mặt đồng thời trình bày đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì, về trách nhiệm hình sự đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị R, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo R từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ; không khấu trừ phần thu nhập vì bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; Về dân sự: Không xem xét; Vật chứng vụ án: Không có

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nguyễn Thị R đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản nhưng khoảng 05 giờ 30 phút ngày 10/3/2019 tại phường 5, thành phố T R tiếp tục trộm cắp tài sản của khách sạn L do bà Nguyễn Thị D làm chủ trị giá 450.000 đồng. Với hành vi và hậu quả như vậy, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 12/8/2019 truy tố bị cáo là có căn cứ.

[2] Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác đồng thời gây mất trật tự trị an trong xã hội, bị cáo đã bị Công an phường B, thành phố T xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp nhưng không lấy làm bài học mà coi thường pháp luật, có suy nghĩ hoàn cảnh kinh tế khó khăn thì lấy tài sản của người khác để có tiền trang trải nên bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp, giá trị tài sản bị cáo trộm cắp 450.000 đồng. Do đó, cần có mức án tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra.

[3] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản đã thu hồi trả cho chủ sở hữu nên chưa gây thiệt hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm lao động, cải tạo, tu dưỡng đạo đức trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự phạt bị cáo cải tạo không giam giữ như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

[5] Xét bị cáo không có công việc làm ổn định, không có thu nhập nên không khấu trừ thu nhập của bị cáo.

[6] Về phần dân sự: Không xem xét

[7] Vật chứng vụ án: Không có

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị R phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị R 01 (một) năm cải tạo không giam giữ kể từ ngày Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Tuy Hòa nơi bị cáo R cư trú nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án; không khấu trừ thu nhập của bị cáo.

Giao bị cáo Nguyễn Thị R cho UBND phường T, thành phố T, tỉnh Phú Yên nơi bị cáo R cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T trong việc giám sát, giáo dục bị cáo R.

Bị cáo Nguyễn Thị R phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án hình sự.

Bị cáo Nguyễn Thị R phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:58/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về