Bản án 58/2019/HSST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 58/2019/HSST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/ QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo.

Họ và tên: Lò Văn Tr, sinh ngày 06/4/1979, tại Ch H, M L, Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản T L, xã Ch H, huyện M L, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn P, sinh năm 1957 và con bà Lò Thị B, ( đã chết), có vợ là Lò Thị Th, sinh năm 1980 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2000, hiện nay đều cư trú bản T L, xã Ch H, huyện M L, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24 tháng 4 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan, Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại Bản cáo trạng số 526/CT-VKSML ngày 29/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La truy tố bị cáo Lò Văn Tr về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Vào hồi 22 giờ 20 phút ngày 24/4/2019 tổ công tác Công an huyện Mường La phát hiện bắt quả tang Lò Văn Tr đang có hành vi cất giấu bên tay trái 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa cục chất bột màu trắng, theo Trang khai nhận là heroine khi Tr đang ở nhà tại bản Tà Lành, xã Chiềng Hoa, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa cục chất bột màu trắng, theo Tr tự khai nhận là heroine.

Ngày 25/4/2019 Công an huyện Mường La tiến hành cân tịnh gói nilon màu xanh bên trong chứa cục bột màu trắng thu giữ của Lò Văn Tr có khối lượng 0,12 gam, ký hiệu T.

Ngày 25/4/2019 Công an huyện Mường La đã ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy đối với mẫu ký hiệu T.

Ngày 28/4/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có bản kết luận giám định số 818, kết luận: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu T là chất ma túy, loại heroine, khối lượng 0,12 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, Lò Văn Tr khai nhận: Vào khoảng 16 giờ ngày 24/4/2019 Lò Văn Tr đi bộ từ nhà thuộc bản Tà Lành, xã Chiềng Hoa, huyện Mường La sang bản Huổi Pù, xã Chiềng Hoa, huyện Mường La để tìm mua ma túy về sử dụng thì gặp một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên tuổi, địa chỉ đang ngồi trên xe máy HONDA WAVE màu đỏ ( Tr không nhớ biển kiểm soát). Tr đến gần người đó hỏi: “ Anh có gì không?”, ( tức là có heroine bán không), người đàn ông trả lời: “ Có”, sau đó Trang đưa cho người đàn ông 200.000 đồng, người đó nhận tiền rồi đưa cho Trang 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa cục chất bột màu trắng, Tr biết là heroine nên nhận rồi đi bộ về nhà. Khi về đến nhà Tr giấu gói heroine vào vách ván gỗ giữa nhà, đến khoảng 20 giờ Tr mang ra sử dụng 02 lần, sau đó tiếp tục cất giấu số heroine còn lại vào chỗ cũ. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày khi Tr lấy số heroine còn lại ra chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Mường La phát hiện, bắt quả tang.

Về nguồn gốc số heroine Lò Văn Tr khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên tuổi, địa chỉ, do không xác định được danh tính người này nên Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn Tr đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn Tr từ 18 đến 24 tháng tù giam; Không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Đối với vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong có vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ và mẫu ký hiệu T1.

Đề nghị buộc bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo khẳng định bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Song đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, pháp luật Nhà nước và một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì bị cáo là người dân tộc sống ở vùng điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, và sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực sửa chữa lỗi lầm. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, vì bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định, tài sản không có giá trị lớn.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Tr thừa nhận: Ngày 24/4/2019 Lò Văn Tr đã có hành vi cất giấu trái phép 0,12 gam heroine với mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Mường La phát hiện bắt quả tang tại nhà ở của bị cáo thuộc bản Tà Lành, xã Chiềng Hoa, huyện Mường La.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định vật chứng của vụ án, lời khai của người làm chứng.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn Tr đã thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 249 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) …;

b) …;

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, nhưng do nghiện chất ma túy nên bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo là thuộc trường hợp nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương.

[2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo.

[4] Về hình phạt chính: Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo nghiện chất ma túy, có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo, không áp dụng đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong đựng vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ và mẫu ký hiệu T1. Là của bị cáo dùng thực hiện tội phạm, và là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

[8] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La; Kiểm sát viên, Người bào chữa cho bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đều hợp pháp.

Do vậy bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình.

 Vì các lẽ trên.

 QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Lò Văn Tr, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn Tr 22 ( Hai mươi hai) tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam giữ ( ngày 24/4/2019).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì công văn của Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong đựng vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ và mẫu ký hiệu T1.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng của vụ án, giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Bị cáo Lò Văn Tr phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 58/2019/HSST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:58/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về