Bản án 59/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 59/2017/HSST NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2017/HSST ngày 05 tháng 9 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2017/HSST-QĐ ngày 06 tháng 9 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy K (tên gọi khác: Tủn), sinh năm 1993 tại Bình Dương. Nơi cư trú: Tổ A, ấp C, xã Y, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Duy T1 (chết) và bà Trần Thị V; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án: (Ngày 25/12/2014, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 146/2014/HSST. Bị cáo kháng cáo, ngày 11/02/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm, xử phạt Nguyễn Duy K 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 18/2015/HSPT, K chấp hành án tại Trại giam Công an tỉnh Bình Dương đến ngày 14/4/2015 chấp hành xong.

Về nhân thân: Ngày 17/8/2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại Trại giam Tống Lê Chân đến ngày 15/3/2012 chấp hành xong.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước trong một vụ án khác. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Đỗ Ngọc T, sinh năm 1996 tại Thái Bình. Nơi cư trú: Tổ A, Ấp B, xã X, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông Đỗ Văn Đ và bà Lương Thị N; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án: Ngày 22/01/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 14/2016/HSST, chấp hành án tại Trại giam Công an tỉnh Bình Dương đến ngày 13/6/2016 chấp hành xong.

Về nhân thân: Ngày 20/3/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Phú Giáo ra Quyết định số 58/2012/QĐ-UBND về việc đưa Đỗ Ngọc Tân vào cơ sở chữa bệnh tại Trung tâm Giáo dục lao động tạo việc làm tỉnh Bình Dương đến ngày 06/9/2013 T chấp hành xong.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước trong một vụ án khác. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1983; nơi cư trú: Ấp 6, xã X, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

2. Ông Vũ Văn G, sinh năm 1978; nơi cư trú: Ấp 3, xã X, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đỗ Văn Đ, sinh năm 1969; nơi cư trú: Ấp B, xã X, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

2. Ông Đinh Xuân O, sinh năm 1991; nơi cư trú: Khu phố 3, phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Xuân M, sinh năm 1962; nơi cư trú: Số 179/25, đường Tô Hiến Thành, Phường 13, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Ngô Thị U, sinh năm 1984; nơi cư trú: Ấp B, xã Thành Tâm, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Vắng mặt.

2. Ông Lê Đình M2, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ L, ấp Q, xã U, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Vắng mặt.

3. Bà Vương Thị Ngọc D, sinh năm 1995; nơi cư trú: Ấp S, xã E, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 30/3/2017, Nguyễn Duy K, Đỗ Ngọc T bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước khởi tố về tội trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra, K, T và tại phiên tòa các bị cáo K, T khai nhận đã thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương cụ thể như sau:

Khoảng 21 giờ, một ngày đầu tháng 3/2017 (không nhớ rỏ ngày), Trần Minh N điều khiển xe mô tô hiệu Jupiter (không nhớ biển số) chở Nguyễn Duy K đi ngang qua nhà ông Vũ Văn G ở ấp 3, xã X, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Thấy trong nhà ông G có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 59A1 - 12345, N bàn với K trộm chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại, K đồng ý. N đưa xe Jupiter cho K chạy lên phía trước khoảng 50 mét đứng chờ còn N đi vào nhà ông G lấy chiếc xe mô tô biển số 59A1 - 12345 rồi quay ra gặp K, cả hai điều khiển xe về huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Sáng hôm sau, N điều khiển chiếc xe mô tô hiệu Sirius trộm được của ông G đã được N thay biển số 52U5 - 0001 đến gặp K, K đưa cho N số tiền 2.000.000 đồng rồi lấy chiếc xe này làm phương tiện đi lại.

Khoảng 22 giờ ngày 16/3/2017, Nguyễn Duy K điều khiển xe mô tô biển số 52U5 - 0001 chở Đỗ Ngọc T đi tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi đến trường trung học cơ sở Bùi Thị Xuân ở Ấp B, xã X, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, thấy chiếc xe mô tô biển số 61P1 - 9999 màu đen - xám (số máy 64144649; số khung 144633) của anh Nguyễn Văn B dựng phía trước sân trường, không có người trông coi, K xuống xe đi bộ vào sân trường còn T đứng ngoài cổng trường cảnh giới. Do chiếc xe mô tô biển số 61P1 - 9999 của anh B không có chìa khóa nên K đẩy chiếc xe này ra ngoài cổng trường, dùng tay bứt đứt dây điện nguồn ổ khóa của xe, khởi động máy rồi cùng T đi lên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, T tháo biển số 61P1 - 9999 của xe vứt bỏ rồi lấy biển số 61T3 - 8888 gắn vào chiếc xe này.

Sau đó, T điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu đen - xám trộm của anh B (xe đã được thay biển số 61P1 - 9999 bằng biển số 61T3 - 8888), K điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu đen trộm cắp của anh G (xe đã được thay biển số 59A1 - 12345 bằng biển số 52U5 - 0001) đến thuê nhà anh Lê Đình M2 ở ấp 1, xã U, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước để ở. Tại đây, K, T tháo rời tất cả các bộ phận của xe mô tô biển số 52U5

- 0001, mài mòn số khung, số máy của xe để đục lại số khung, số máy trùng với số khung, số máy trong giấy đăng ký xe mô tô biển số 61P2 - 5555 do ông Đỗ Văn Đ là cha của T đứng tên chủ sở hữu, mua dụng cụ để sơn lại chiếc xe này nhằm tránh bị phát hiện. Đối với chiếc xe 61T3 - 8888, K, T tháo bỏ kiếng chiếu hậu bên trái của xe, tráo đổi hai bánh xe của xe mô tô biển số 61T3 - 8888 và xe mô tô biển số 52U5 -0001 cho nhau rồi K đem chiếc xe mô tô biển số 61T3 - 8888 đến Ấp B, xã Minh Tân, huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước gửi cho chị Ngô Thị U nhưng không nói cho chị U biết chiếc xe này là do K trộm cắp mà có. Khoảng 3 ngày sau, K đến nhà chị U lấy chiếc xe 61T3 - 8888 đi về xã Y, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương thì bị Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước bắt giữ do trước đó K đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Chơn Thành.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo thu giữ:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 61T3 - 8888; số máy 5C64 - 144649; số khung: RLCS5C6409Y 144633 của ông Nguyễn Văn B. Tình trạng ổ khóa bị hư hỏng, ốp nhựa mặt nạ xe bị bung rời, không có yếm chắn gió, không gương chiếu hậu, không kiểm tra tình trạng máy bên trong.

- 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Siriur, biển số 52U5 - 0001; số khung và số máy đã bị mài mòn của ông Vũ Văn G (tình trạng xe bị tháo rời không còn phần nhựa bảo vệ khung xe, chắn bùng phía trước, không yếm chắn gió, không mặt nạ, không đèn pha trước, không yên xe, không gương chiếu hậu bên phải, không pô xe, không bình ác quy, bộ máy xe bị tháo rời);

- 01 (một) bộ yếm chắn gió xe mô tô, màu xám - đen có chữ YAMAHA; 02 (hai) lốp nhựa thân xe mô tô, màu đen, đã tháo gỡ hết tem nhãn; 01 (một) mặt nạ xe mô tô, màu xám, có lô gô hãng xe Yamaha; 01 (một) ốp nhựa đầu xe mô tô; màu xanh;

01 (một) phần trước vè chắn bùn bánh trước xe mô tô, màu xanh, bằng nhựa; 01 (một) ốp nhựa phía trước bình xăng, màu đen của xe mô tô; 01 (một) bình ắc qui, màu đen, nhãn hiệu GS GT6A 12V- 6Am; 01 (một) giỏ lưới bằng kim loại bọc nhựa (loại ốp bên chắn gió xe mô tô); 01 pô xe mô tô có chữ Yamaha; 01 (một) ốp pô xe bằng kim loại, màu trắng, có chữ Yamaha; 01 (một) gương chiếu hậu màu đen, bên trái của mô tô; 01 (một) bộ tem xe mô tô Yamaha Sirius Mx, màu xanh - đen - trắng; 01 (một) yên xe mô tô, màu đen; 01 (một) hộp bọc xích xe mô tô, màu trắng; 01 (một) chóa đèn xe mô tô; 01 (một) hộp đựng đồ xe mô tô bằng nhựa; 01 (một) bộ phận gác chân xe mô tô. 01 (một) miếng kim loại, màu vàng - trắng, kích thước khoảng 5 x 1,5cm, bên trên có vết đục hằn thể hiện “63375910’’; 01 (một) máy chà nhám nhãn hiệu Makita; 01 (một) bình sơn xịt chưa qua sử dụng; 01 (một) bình sơn xịt đã qua sử dụng, có cùng loại nhãn hiệu Win 267; 01 (một) bình sơn phun nhãn hiệu ATM SPRAY A211 Red đã qua sử dụng; 01 (một) hộp sơn ALKYDPINE đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số xe  61P2 - 5555 mang tên Đỗ Văn Đ; 01 (một) biển số xe 52U5 - 0001; 01 (một) biển số xe 61T3 - 8888.

Theo bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương ngày 05/4/2017 kết luận 01 xe mô tô biển số 61P1 - 9999, nhãn hiệu Yamaha số loại Sirius màu sơn đen xám, số máy 64 -144649, số khung 144633 có giá trị là 9.600.000 đồng.

Theo bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Giáo ngày 24/6/2017, kết luận: 01 xe mô tô biển số 59A1 - 12345 nhãn hiệu Yamaha số loại Sirius màu sơn đen xám; số máy 5C - 64130029; số khung RLCS5C6409Y130029 có giá trị là: 9.600.000 đồng.

Cáo trạng số 51/QĐ - KSĐT ngày 01/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Duy K, Đỗ Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy K, Đỗ Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 53 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K từ   12 (Mười hai) tháng tù đến 18 (Mười tám) tháng tù; xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc T từ 09 (Chín) tháng tù đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại Vũ Văn G đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm.

- Người bị hại Nguyễn Văn B yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) là chi phí sửa xe mô tô. Các bị cáo đồng ý bồi thường 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) nên đề nghị HĐXX buộc các bị cáo liên đới bồi thường 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) cho ông Nguyễn Văn B.

Xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 61T3 - 8888; số máy 5C64 - 144649; số khung: RLCS5C6409Y 144633. Tình trạng ổ khóa bị hư hỏng, ốp nhựa mặt nạ xe bị bung rời, không có yếm chắn gió, không gương chiếu hậu, không kiểm tra tình trạng máy bên trong. Đây là xe của ông Nguyễn Văn B, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã trả lại xe cho ông B. Ông B đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì thêm.

- Đối 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 52U5 - 0001; số khung và số máy đã bị mài mòn (tình trạng xe bị tháo rời không còn phần nhựa bảo vệ khung xe, chắn bùng phía trước, không yếm chắn gió, không mặt nạ, không đèn pha trước, không yên xe, không gương chiếu hậu bên phải, không pô xe, không bình ác quy, bộ máy xe bị tháo rời); 01 (một) bộ yếm chắn gió xe mô tô, màu xám - đen có chữ YAMAHA; 02 lốp nhựa thân xe mô tô, màu đen, đã tháo gỡ hết tem nhãn; 01 mặt nạ xe mô tô, màu xám, có lô gô hãng xe Yamaha; 01 ốp nhựa đầu xe mô tô; màu xanh;

01 phần trước vè chắn bùn bánh trước xe mô tô, màu xanh, bằng nhựa; 01 ốp nhựa phía trước bình xăng, màu đen của xe mô tô; 01 bình ắc qui, màu đen, nhãn hiệu GS GT6A 12V- 6Am; 01 giỏ lưới bằng kim loại bọc nhựa (loại ốp bên chắn gió xe mô tô);

01 pô xe mô tô có chữ Yamaha; 01 ốp pô xe bằng kim loại, màu trắng, có chữ Yamaha;

01 gương chiếu hậu màu đen, bên trái của mô tô; 01 bộ tem xe mô tô Yamaha Sirius Mx, màu xanh - đen - trắng; 01 (một) yên xe mô tô, màu đen; 01 hộp bọc xích xe mô tô, màu trắng; 01 chóa đèn xe mô tô; 01 hộp đựng đồ xe mô tô bằng nhựa; 01 bộ phận gác chân xe mô tô. Đây là các bộ phận của chiếc xe mô tô biển số 59A1 - 12345, chiếc xe này của ông Đinh Xuân O bán lại cho ông Vũ Văn G nhưng chưa sang tên chủ sở hữu. Cơ quan điều tra đã giao trả toàn bộ các bộ phận chiếc xe trên cho ông Vũ Văn G, ông G đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

- Đối với 01 (một) miếng kim loại, màu vàng - trắng, kích thước khoảng 5 x 1,5cm, bên trên có vết đục hằn thể hiện “63375910’’; 01 máy chà nhám nhãn hiệu Makita; 01 bình sơn xịt chưa qua sử dụng; 01 bình sơn xịt đã qua sử dụng, có cùng loại nhãn hiệu Win 267; 01 bình sơn phun nhãn hiệu ATM SPRAY A211 Red đã qua sử dụng; 01 hộp sơn ALKYDPINE đã qua sử dụng. Đây là vật không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số xe  61P2 - 5555 do ông Đỗ Văn Đ đứng tên. Năm 2014, ông Đ cho Đỗ Ngọc T chiếc xe mô tô biển số 61P2 -2654 để làm phương đi lại, T đã đem chiếc xe này đi cầm nhưng không chuộc lại. Xét thấy, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số xe  61P2 - 5555 là giấy tờ của Đỗ Ngọc T không liên quan đến việc phạm tội nên đề nghị trả cho T.

- 01 biển số xe 52U5 - 0001, đây là biển số xe của ông Nguyễn Xuân M nhưng chiếc xe này ông M đã bán cho một người không rõ nhân thân lai lịch vào năm 2004 nhưng chưa là thủ tục sang tên. Do đó, cơ quan điều tra đã giao biển số xe này cho đội cảnh sát giao thông Công an huyện Phú Giáo xử lý theo thẩm quyền.

- 01 biển số xe 61T3 - 8888, kết quả tra cứu người đứng tên chủ sở hữu chiếc xe này là ông Võ Ngọc H có ở xóm G, xã H B, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, qua xác minh không có tên Võ Ngọc H ở chỉ trên. Do đó, cơ quan điều tra đã giao biển số xe này cho đội cảnh sát giao thông Công an huyện Phú Giáo xử lý theo thẩm quyền.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Đỗ Văn Đ có đơn xin vắng mặt và không có yêu cầu gì thêm đối với các bị cáo.

Trong lời nói sau cùng của bị cáo K: Bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để sớm trở về với gia đình và xã hội.

Trong lời nói sau cùng của bị cáo T: Bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa sai, làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng đầu tháng 3/2017, Nguyễn Duy K cùng Trần Minh N lợi dụng sự sơ hở của ông Vũ Văn G, K, N đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 59A1 - 12345 trị giá 9.600.000 đồng của ông G.

Vào khoảng 22 giờ ngày 16/3/2017, Nguyễn Duy K cùng Đỗ Ngọc T đã lợi dụng sự sơ hở của ông Nguyễn Văn B đã chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 61P1 - 9999 trị giá 9.600.000 đồng của ông B.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo K đã cũng N chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô trị giá trị giá 9.600.000 đồng và cùng bị cáo T chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô trị giá trị giá 9.600.000 đồng. Do đó, bị cáo K đã thực hiện hành vi chiếm đoạt hai chiếc xe mô tô có tổng giá trị 19.200.000 đồng của các bị hại. Bị cáo T đã cùng bị cáo K chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô trị giá trị giá 9.600.000 đồng. Các bị cáo đã đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 51/QĐ-KSĐT ngày 01/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Duy K và Đỗ Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của các bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trong khu vực. HĐXX xem xét một mức hình phạt phù hợp với tính chất hành vi phạm tội và đồng thời cũng để giáo dục đối với các bị cáo.

[4] Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn. Các bị cáo K, T đều là người thực hành trong vụ án, khi trộm cắp xe mô tô của ông G thì K cảnh giới cho N (N đã chết) chiếm đoạt xe của ông G, khi trộm cắp xe của ông B thì T cảnh giới cho K chiếm đoạt xe của ông B. Vai trò của các bị cáo là ngang nhau.

[5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: [5.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

- Bị cáo Nguyễn Duy K: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, mà lại tiếp tục phạm tội, bị cáo đã chiếm đoạt của người bị hại Vũ Văn G 01 chiếc xe mô tô trị giá 9.600.00đ và của bị hại Nguyễn Văn B một chiếc xe mô tô trị giá 9.600.000đ. Do đó, hành vi của bị cáo đã thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần và tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

+ Bị cáo Đỗ Ngọc T: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, mà lại tiếp tục phạm tội nên hành vi của bị cáo đã thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

[5.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo K, T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS;

[6] Đối với Trần Minh N cùng Nguyễn Duy K trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 59A1 - 12345 của ông Vũ Văn G nhưng ngày 11/3/2017, Trần Minh N đã chết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo không đề cập xử lý đối với N, HĐXX không đặt ra xem xét.

Đối với bà Ngô Thị U cho Nguyễn Duy K gửi chiếc xe mô tô biển số 61T3 -8888 tại nhà nhưng không biết đây là tài sản do K trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo không đề cập xử lý đối với U HĐXX không đặt ra xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại:

Người bị hại Nguyễn Văn B yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) là chi phí sửa chữa xe, các bị cáo đồng ý bồi thường nên HĐXX ghi nhận buộc các bị cáo liên đới bồi thường cho bị hại B 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Người bị hại Vũ Văn G đã nhận lại tài sản là các bộ phận của chiếc xe mô tô biển số 59A1 - 12345 và không yêu cầu gì thêm đối nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng:

[8.1] Đối với 01 (một) miếng kim loại, màu vàng - trắng, kích thước khoảng 5 x 1,5cm, bên trên có vết đục hằn thể hiện “63375910’’; 01 máy chà nhám nhãn hiệu Makita; 01 bình sơn xịt chưa qua sử dụng; 01 bình sơn xịt đã qua sử dụng, có cùng loại nhãn hiệu Win 267; 01 bình sơn phun nhãn hiệu ATM SPRAY A211 Red đã qua sử dụng; 01 hộp sơn ALKYDPINE đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8.2] Đối với 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số xe  61P2 - 5555 do ông Đỗ Văn Đ đứng tên. Năm 2014, ông Đ cho Đỗ Ngọc T chiếc xe mô tô biển số 61P2 - 5555 để làm phương đi lại, T đã đem chiếc xe này đi cầm nhưng không chuộc lại. Xét thấy, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số xe  61P2 - 5555 là giấy tờ của Đỗ Ngọc T không liên quan đến việc phạm tội nên HĐXX tuyên trả lại cho T.

[8.3] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 61T3 - 8888; số máy 5C64 - 144649; số khung: RLCS5C6409Y 144633. Tình trạng ổ khóa bị hư hỏng, ốp nhựa mặt nạ xe bị bung rời, không có yếm chắn gió, không gương chiếu hậu, khôngkiểm tra tình trạng máy bên trong ngày 17/7/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã trả cho bị hại Nguyễn Văn B các tài sản trên nên HĐXX không đặt ra xem xét.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 52U5 - 0001; số khung và số máy đã bị mài mòn (tình trạng xe bị tháo rời không còn phần nhựa bảo vệ khung xe, chắn bùng phía trước, không yếm chắn gió, không mặt nạ, không đèn pha trước, không yên xe, không gương chiếu hậu bên phải, không pô xe, không bình ác quy, bộ máy xe bị tháo rời); 01 (một) bộ yếm chắn gió xe mô tô, màu xám - đen có chữ YAMAHA; 02 lốp nhựa thân xe mô tô, màu đen, đã tháo gỡ hết tem nhãn; 01 mặt nạ xe mô tô, màu xám, có lô gô hãng xe Yamaha; 01 ốp nhựa đầu xe mô tô; màu xanh; 01 phần trước vè chắn bùn bánh trước xe mô tô, màu xanh, bằng nhựa; 01 ốp nhựa phía trước bình xăng, màu đen của xe mô tô; 01 bình ắc qui, màu đen, nhãn hiệu GS GT6A 12V- 6Am; 01 giỏ lưới bằng kim loại bọc nhựa (loại ốp bên chắn gió xe mô tô); 01 pô xe mô tô có chữ Yamaha; 01 ốp pô xe bằng kim loại, màu trắng, có chữ Yamaha; 01 gương chiếu hậu màu đen, bên trái của mô tô; 01 bộ tem xe mô tô Yamaha Sirius Mx, màu xanh - đen - trắng; 01 (một) yên xe mô tô, màu đen; 01 hộp bọc xích xe mô tô, màu trắng; 01 chóa đèn xe mô tô; 01 hộp đựng đồ xe mô tô bằng nhựa; 01 bộ phận gác chân xe mô tô. Đây là các bộ phận của chiếc xe mô tô biển số 59A1 - 12345, chiếc xe này của ông Đinh Xuân O bán lại cho ông Vũ Văn G nhưng chưa sang tên chủ sở hữu. Ngày 24/7/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã trả cho ông Vũ Văn G các tài sản trên, ông G đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không đặt ra xem xét.

Đối với 01 biển số xe 52U5 - 0001, đây là biển số xe của ông Nguyễn Xuân M nhưng chiếc xe này ông M đã bán cho một người không rõ nhân thân lai lịch vào năm2004 nhưng chưa là thủ tục sang tên và 01 biển số xe 61T3 - 8888, kết quả tra cứu người đứng tên chủ sở hữu chiếc xe này là ông Võ Ngọc H có ở xóm G, xã H B, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, qua xác minh không có tên Võ Ngọc H ở chỉ trên. Do đó, cơ quan điều tra đã giao biển số xe này cho đội cảnh sát giao thông Công an huyện Phú Giáo xử lý theo thẩm quyền nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy K, Đỗ Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 53 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015:

Buộc các bị cáo Nguyễn Duy K, Đỗ Ngọc T phải liên đới bồi thường cho người bị hại Nguyễn Văn B số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

4. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự và Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) miếng kim loại, màu vàng - trắng, kích thước khoảng 5 x 1,5cm, bên trên có vết đục hằn thể hiện “63375910’’; 01 máy chà nhám nhãn hiệu Makita; 01 bình sơn xịt chưa qua sử dụng; 01 bình sơn xịt đã qua sử dụng, có cùng loại nhãn hiệu Win 267; 01 bình sơn phun nhãn hiệu ATM SPRAY A211 Red đã qua sử dụng; 01 hộp sơn ALKYDPINE đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Ngọc T 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số xe 61P2 - 5555 mang tên Đỗ Văn Đ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương)

5. Về án phí: Áp dụng Điều 98, 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Duy K, Đỗ Ngọc T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và các bị cáo liên đới nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2017/HSST ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:59/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về