Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 04/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 59/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 36/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- N đơn: Chị Bùi Cẩm Th, sinh năm 1996; địa chỉ cư trú: ấp B, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1993; địa chỉ cư trú: ấp B, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11/02/2019, N đơn chị Bùi Cẩm Th trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn T tự tìm hiểu được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 05/9/2014 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chung sống không có hạnh phúc nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay.

Về con chung: Chị và anh T có hai con chung là cháu Bùi Văn H, sinh ngày 21/11/2013 và cháu Bùi Thảo N, sinh ngày 12/4/2016, hiện tại anh T đang nuôi dạy hai cháu.

Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh T được ly hôn; về con chung chị thống nhất để anh T tiếp tục nuôi dạy cháu H và cháu N, chị cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật; về tài sản chung và nợ chung là không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình phát biểu: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đúng với quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận khởi kiện của chị Th yêu cầu ly hôn với anh T; về con chung giao cháu H và cháu N cho anh T tiếp tục nuôi dạy, chị Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu H và cháu N mỗi cháu hàng tháng với số tiền 695.000 đồng cho đến khi hai cháu tròn 18 tuổi; về tài sản chung không ai yêu cầu giải quyết nên không xét; về án phí chị Th chịu án phí hôn nhân và gia đình 300.000 đồng và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục: Tòa án đã triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh T vắng mặt không có lý do, N đơn chị Th có đơn xin vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh T và chị Th.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Cẩm Th và anh Bùi Văn T được xác lập hợp pháp, thể hiện là anh chị tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn vào ngày 05/9/2014 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Trong quá trình chung sống giữa chị Th và anh T xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chung sống không có hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 như lời trình bày của chị Th là thực tế có xảy ra. Điều này phù hợp với biên bản xác minh của Tòa án về tình trạng hôn nhân của anh chị. Kể từ khi anh chị xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân đến nay đã được gia đình hòa giải nhưng không thể hàn gắn được. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần tiến hành hòa giải để anh chị hàn gắn nhưng không có kết quả, do anh T không tham gia hòa giải và không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của chị Th. Điều đó chứng tỏ mối quan hệ hôn nhân giữa chị Th và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên giải quyết cho anh chị ly hôn là phù hợp với thực tế. Vì vậy, chị Th khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Th và anh T có hai con chung là cháu Bùi Văn H, sinh ngày 21/11/2013 và cháu Bùi Thảo N, sinh ngày 12/4/2016. Cháu H và cháu N hiện chưa thành niên, kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay anh T là người trực tiếp nuôi dạy hai cháu vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, cuộc sống của hai cháu đã ổn định, chị Th cũng đồng ý để cho anh T tiếp tục nuôi dạy hai cháu, do đó giao cháu H và cháu N cho anh T tiếp tục nuôi dạy là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị Th đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật, do chị Th hiện tại là nghề nghiệp lao động phổ thông nên lấy mức cấp dưỡng theo khả năng thực tế, chị Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu H và cháu N mỗi cháu hàng tháng bằng ½ mức lương cơ bản hiện hành (mức lương cơ bản hiện nay là 1.390.000 đồng/tháng) với số tiền 695.000 đồng, thời gian cấp dưỡng kể tử ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu H và cháu N tròn 18 tuổi. Chị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu H và cháu N mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung: Chị Th xác định giữa chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung, các đương sự không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[5] Về án phí: Chị Th chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng. Ngày 11/02/2019, chị Th nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình được chuyển thu án phí hôn nhân và gia đình, chị Th còn phải nộp tiếp án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng.

Anh T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 110, 116, 119 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; các Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận khởi kiện của chị Bùi Cẩm Th yêu cầu ly hôn với anh Bùi Văn T.

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Cẩm Th và anh Bùi Văn T.

Về con chung: Giao cháu Bùi Văn H, sinh ngày 21/11/2013 và cháu Bùi Thảo N, sinh ngày 12/4/2016 cho anh Bùi Văn T tiếp tục nuôi dạy. Chị Bùi Cẩm Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu H và cháu N mà không ai được cản trở.

Chị Bùi Cẩm Th có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Bùi Văn H và cháu Bùi Thảo N mỗi cháu hàng tháng với số tiền 695.000 đồng, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 04/6/2019 cho đến khi cháu H và cháu N tròn 18 tuổi.

Kể từ khi bản án có hiệu lực, anh T có đơn yêu cầu thi hành án, chị Th chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng số tiền đã nêu thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Chị Bùi cẩm Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình 300.000 đồng và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng. Ngày 11/02/2019, chị Th nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005924 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình được chuyển thu án phí hôn nhân và gia đình, chị Th còn phải nộp tiếp án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị Bùi Cẩm Th và anh Bùi Văn T vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HNGĐ-ST ngày 04/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:59/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về