Bản án 59/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 59/2019/HSST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2019/TLST-HS ngày 27/3/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 04/5/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thị T, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1981, tại Thái Bình. Trú tại: Đội A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Nơi ĐKHKTT: Đội A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn B, sinh năm 1951 và bà: Trần Thị T1, sinh năm 1959; có chồng: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1976 (đã ly hôn năm 2005); chồng 2: Bùi Văn T, sinh năm 1986 (đã ly hôn năm 2016) và 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2008; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử lý hành chính; bị bắt giam từ ngày 11/11/2018 "có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 40 phút ngày 11/11/2018 tại khu vực đội B, xã T, huyện Đ tổ công tác Công an huyện Điện Biên phát hiện ở ven đường đối tượng Phạm Hồng Đức vừa sử dụng ma túy (chích Heroine xong), thu giữ 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng. Đức khai số Heroine vừa sử dụng xong là mua của Trần Thị T ở Đội A, xã T, huyện Điện Biên vào khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày với giá tiền là 50.000đ.

n cứ vào lời khai của Đức, hồi 20 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên tiến hành khám xét khẩn cấp người và nơi ở của bị cáo, qua khám xét đã thu giữ: 01 gói Heroine cất giấu trong va ly để trên mặt két sắt cuối giường ngủ bị cáo; 01 gói Heroine cất giấu trong khe bàn ở trong nhà bị cáo; 02 gói Heroine cất trong ống sắt để trong nhà tắm; 01 gói 25 viên hồng phiến để trong cục đất nặn ở dưới nền nhà; 01 túi ni lon có 118 viên hồng phiến và 01 màu xanh cất giấu rong lỗ gạch để trong nhà vệ sinh; 2.100.000đ trong két sắt; 410.000đ trong ví da để ở giường.

Bị cáo khai nhận toàn bộ số ma túy bị thu giữ là của bị cáo, do bị cáo mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên và địa chỉ, với giá tiền là 3.000.000đ tại khu vực cánh đồng thuộc Đội A, xã T, huyện Đ. Sau khi mua được số ma túy trên bị cáo mang về cất giấu ở nhà nhà tắm, đến khoảng 14 giờ cùng ngày bị cáo lấy gói ma túy ra chia nhỏ và cất giấu nhiều nơi trong nhà với mục đích là để bán cho người khác. Nhưng bị cáo chưa kịp bán cho ai thì đã bị bắt.

Ti biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng ngày 12/11/2018 đã xác định:

- Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 7,89 gam;

- 25 viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 2,55 gam.

- 118 viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 12,04 gam.

- 01 viên nén màu xanh thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,1 gam.

Ti phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 81/GĐ-PC09 ngày 23/11/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng được trích từ vật chứng thu giữ của Trần Thị T gửi giám định là Heroine;

- Mẫu viên nén màu hồng và 01 viên màu xanh thu giữ của Trần Thị T gửi giám định là Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 59/CT-VKSĐB ngày 26/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Trần Thị T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251/BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS đề nghị xử phạt bị cáo từ 11năm đến 11 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106/Bộ luật Tố tụng Hình sự về xử lý vật chứng; trả lại cho bị cáo số tiền 2.521.000 đồng.

Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn toàn bộ án phí HSST.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

[2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Nếu bị phát hiện Nhà nước sẽ xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Nên cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Hành vi cất giấu 7,89 gam Heroine và 14,69 gam Methamphetamine, với mục đích để bán kiếm lời của bị cáo. Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251/BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Do không có ý thức rèn luyện bản thân, bị cáo đã phạm tội. Ngày 11/11/2018 bị cáo phạm tội trong vụ án này và bị bắt tạm giam cho đến nay.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.

[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Còn đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, không biết tên và địa chỉ nên không xác minh làm rõ được.

Đi với Phạm Hồng Đức có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không cấu thành tội phạm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[6]. Vật chứng của vụ án là 7,89 gam Heroine, gửi giám định 0,53 gam và 14,69 gam Methamphetamine, gửi giám định 0,51 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định) và 01 ống sắt, 01 bơm kim tiêm, 01 chiếc va ly màu đen cần bị tịch thu, tiêu huỷ theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106/BLTTHS và trả lại cho bị cáo số tiền 2.521.000 đồng.

[7]. Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn toàn bộ án phí HSST.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Điểm p khoản 2 Điều 251/BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS xử phạt bị cáo Trần Thị T 11 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 11/11/2018.

3. Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 7,89 gam Heroine, gửi giám định 0,53 gam và 14,69 gam Methamphetamine, gửi giám định 0,51 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định) và 01 ống sắt, 01 bơm kim tiêm, 01 chiếc va ly màu đen. Trả lại cho bị cáo số tiền 2.521.000 đồng.

(Vật chứng đã được công an huyện Điện Biên chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 01/4/2019).

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn toàn bộ án phí HSST.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về