Bản án 60/2018/DS-ST ngày 10/10/2018 về tranh chấp lối đi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 60/2018/DS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI

Ngày 10 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2018/TLST-DS ngày 03 tháng 5 năm 2018 về tranh chấp “Lối đi”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2018/QĐXXST- DS ngày 25 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phan Văn C, sinh năm: 1972.

Địa chỉ: Tổ 3, ấp B, xã Đ, huyện G, tỉnh Tây Ninh. (có mặt).

Bị đơn: Ông Phan Thế P, sinh năm: 1962.

Địa chỉ: ấp M, xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh.(có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Dương Thị G, sinh năm: 1962.

Người đại diện theo ủy của bà Dương Thị G là ông Phan Thế P, sinh năm: 1962(theo văn bản ủy quyền ngày 18-9-2018).

Địa chỉ: ấp M, xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện nguyên đơn ông Phan Văn C tr nh bày: Yêu cầu ông Phan Thế P khôi phục lại hiện trạng lối đi có diện tích ngang 01m dài khoản 55m để đủ như lối đi ban đầu ngang 2,5m dài 55m, khi xem xét thẩm định tại chổ thực tế đã có con đường ngang 2,5m dài dài 59,49m, th  ông cho rằng trước đây ông cố của ông chia đất cho ông nội ông và cha của ông P có chừa con đường ngang 3,5m dài 59,75m. Trong quá tr nh sử dụng ông P lấn chiếm diện tích ngang 01m dài dài59,75m, nên còn lại diện tích ngang 2,5m dài 59,49m  rất  kho khăn khi vận chuyển nông sản. Hiện tại ông P đã được Ủy ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bao trùm luôn diện tích đất này. Nay ông yêu cầu ông P và bà G có nghĩa vụ trả lại con đường có diện tích là ngang 01m dài dài 59,75m để khôi phục lại con đường như trước đây có diện tích ngang 3,5m dài dài 59,75m.

Bị đơn người được ủy quyền ông Phan Thế P trình bày: Tại vị trí ông C yêu cầu trả lại con đường thực tế không có con đường nào cả. Khi ông bà chia đất không chừa đường đi như ông C tr nh bày mà chỉ có bờ ranh. Trong quá tr nh sử dụng hai bên bồi đắp đường để đi, nên đã có con đường thực tế diện tích ngang 2,5m dài 59,49m là lối đi chung. Do đó ông không đồng ý theo yêu cầu của ông C.

Đại diện Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của ông C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện có con đường thực tế diện ngang 2,5m dài 59,49m. Diện tích đất tranh chấp ngang 01m dài 59,75m là một phần diện tích nằm trong diện tích 3.647m2  thuộc thửa số 310, tờ bản đồ số 35; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Phan Thế P đứng tên ngày 25-10-2002.

Đất có tứ cận: Đông giáp thửa  đất ông Phan Thế P dài 59,75m; Tây giáp đường bờ dài 59,49m; Nam giáp thửa số 329 dài 1,0m; Bắc giáp thửa số 342 dài 1,0m. Đất tọa lạc ấp B, xã Đ, huyện G, tỉnh Tây Ninh.

Các đương sự tự thỏa thuận giá trị tài sản tranh chấp là 3.546.000 đồng phù hợp với giá thực tế chuyển nhượng tại địa phương nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Nguồn gốc đất tranh chấp ông C thừa nhận là đất của ông P; Hơn nữa qua làm việc những người làm chứng không xác định được tại vị trí tranh chấp có lối đi hay không; Cũng như qua xem xét thẩm định tại chỗ tại vị trí tranh chấp lối đi là một phần diện tích đất nằm trong tổng diện tích đất 3.647m2 thuộc thửa số 310, tờ bản đồ số 35; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Phan Thế P đứng tên ngày 25-10-2002; Thực tế giáp ranh về hướng tây tại vị trí tranh chấp đã có sẵn con đường có diện ngang 2,5m dài 59,49m đảm bảo để các bên vận chuyển nông sản;

Ngoài ra đất của ông C và đất của ông P giáp ranh với nhau nếu ông C muốn có lối đi rộng lớn th  ông C nên tận dụng đất của ông để mở đường mới hợp lý. Do đó không chấp nhận yêu cầu của ông C là có căn cứ.

[3] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận yêu cầu của ông C là có căn cứ chấp nhận.

[4] Về án phí; Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Phan Văn C phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.

V  các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 254 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn C đối với ông Phan Thế P.

2. Về án phí và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Ông Phan Văn C phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013410 ngày 03-05-2018 và 1.000.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Ông C đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm và đủ tiền chi phí xem xét thẩm định tại chổ.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, th  người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

442
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2018/DS-ST ngày 10/10/2018 về tranh chấp lối đi

Số hiệu:60/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về