Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BN ÁN 60/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/9/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 403/2019/TLST-HNGĐ ngày 03/7/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 22/8/2019, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Dương Thị T

Địa chỉ: Tổ 4 khu 3 phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh Có mặt tại phiên tòa

2.Bị đơn: Anh Tăng Bá U

Địa chỉ: Tổ 4 khu 3 phường H, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh Có mặt tại phiên tòa 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai, nguyên đơn chị Dương Thị T trình bày: chị và anh Tăng Bá U tự nguyện kết hôn với nhau vào ngày 19/6/2003, đăng ký tại UBND thị trấn M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn hai bên có thời gian tìm hiểu 02 năm, cả hai đều kết hôn lần đầu. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2014 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh U thường xuyên uống rượu chè, chơi cờ bạc và không quan tâm đến con cái. Do vậy cuộc sống vợ chồng thường cãi vã, không hạnh phúc, tuy sống cùng một nhà nhưng cả hai không nói chuyện với nhau. Hiện tại mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng không thể hòa giải được và xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, quan điểm của chị Dương Thị T đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: vợ chồng có 01 con chung là Tăng Tất T - sinh ngày 19/3/2009, chị T đề nghị được trực tiếp nuôi con chung đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh U cấp dưỡng.

Về tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, bị đơn anh Tăng Bá U trình bày: về điều kiện và hoàn cảnh kết hôn của vợ chồng phù hợp với lời trình bày của chị Dương Thị T.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng nhau về quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên hai bên không thể nói chuyện được với nhau. Nay chị Dương Thị T không muốn chung sống với anh nữa nên đã làm đơn xin ly hôn. Quan điểm của U không đồng ý vì anh vẫn còn tình cảm với chị T và không muốn làm ảnh hưởng đến cuộc sống của con chung. Nếu chị T vẫn kiên quyết ly hôn, anh U đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: vợ chồng có 01 con chung là Tăng Tất T - sinh ngày 19/3/2009, nếu ly hôn quan điểm của anh U đề nghị được trực tiếp nuôi con chung đến tuổi thành niên và không yêu cầu chị T cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã thụ lý vụ án theo quy định tại điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, thư ký và hội đồng xét xử đã thực hiện theo đúng trình tự tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn là “ly hôn”, quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn được xác lập ngày 19/6/2003, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh theo đúng quy định của pháp luật, do vậy quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được điều chỉnh theo luật hôn nhân và gia đình.

hin:

[3] Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của các đương sự đã thể Mâu thuẫn của vợ chồng giữa chị Dương Thị T và anh Tăng Bá U xảy ra từ năm 2017, nguyên nhân là do là do vợ chồng bất đồng nhau về quan điểm sống. Do mâu thuẫn căng thẳng nên mặc dù vẫn sống cùng nhà nhưng vợ chồng đã ly thân không ai quan tâm đến ai.

Tại phiên tòa, chị Dương Thị T vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn. Quan điểm của anh Tăng Bá U không đồng ý ly hôn nhưng cũng xác nhận vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc, không có tình cảm.

Đại diện tổ dân nơi cư trú của chị Dương Thị T và anh Tăng Bá U xác nhận: vợ chồng mâu thuẫn từ 2 năm và đã ăn riêng, anh U không có trách nhiệm cùng chị T chăm sóc con chung.

Như vậy là mâu thuẫn của vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Dương Thị T với anh Tăng Bá U là có căn cứ theo quy định tại điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: vợ chồng có 01 con chung Tăng Tất T - sinh ngày 19/3/2009. Tại phiên tòa, chị T vẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh U cấp dưỡng. Anh U cũng đồng ý với đề nghị của chị T về việc nuôi con chung nếu vợ chồng phải ly hôn.

Hi đồng xét xử thấy rằng: con chung đang ở cùng với cả chị T và anh U, tuy nhiên chị T đang là người có trách nhiệm nuôi con và chị có thu nhập ổn định được tổ chức nơi làm việc xác nhận. Cháu Tăng Tất T cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn. Do vậy nên chấp nhận yêu cầu của chị T về việc được quyền trực tiếp nuôi con khi ly hôn là phù hợp với quy định tại điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung: hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập đến.

[6] Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 147, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: chị Dương Thị T được ly hôn anh Tăng Bá U.

- Về con chung: chị Dương Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc con chung Tăng Tất T - sinh ngày 19/3/2009; anh Tăng Bá U không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

- Về án phí: chị Dương Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm (đã nộp tạm U án phí theo biên lai thu tiền số 01220 ngày 03/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long).

Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:60/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về