Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 30/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 60/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 216/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2019 về việc: “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 187/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T - Sinh năm: 1988, địa chỉ nơi đăng ký HKTT: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre, địa chỉ nơi cư trú: Ấp D, xã E, huyện C, tỉnh Bến Tre (có mặt).

- Bị đơn: Anh Huỳnh Văn B - Sinh năm: 1987; địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 5 năm 2019, bn tự khai ngày 14 tháng 6 năm 2019 và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Huỳnh Văn B tìm hiểu nhau rồi tổ chức lễ cưới vào ngày 25 tháng 12 âm lịch năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre vào ngày 30 tháng 5 năm 2018; việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc hay lừa dối. Sau khi kết hôn, chị và anh B chung sống hạnh phúc đến tháng 01 năm 2019 thì hôn nhân không còn hạnh phúc nữa mà nguyên nhân chủ yếu là do anh B không quan tâm đến chị, do bất đồng quan điểm sống, nên chị về nhà cha mẹ ruột của chị để sinh sống từ tháng 01 năm 2019. Kể từ khi chị về nhà cha mẹ ruột của chị để sinh sống cho đến nay thì anh B không có đến thăm, không có trao đổi gì với chị để nhằm mục đích đoàn tụ. Chị T cho rằng tình cảm giữa chị và anh B là không còn, không thể đoàn tụ được, nên chị T yêu cầu ly hôn với anh B, không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Về con chung: Chị T trình bày chị và anh B chưa có con chung.

Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị T trình bày là không có.

Bị đơn là anh Huỳnh Văn B vng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của anh về các vn đề có liên quan đến vụ án.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T giữ nguyên lời trình bày và yêu cầu khởi kiện như đã nêu trên. Anh Huỳnh Văn B vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc: “Ly hôn” với anh Huỳnh Văn B có địa chỉ tại: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre nên Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre thụ lý, giải quyết là phù hợp với quy định tại các điều 28, 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Anh Huỳnh Văn B đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhưng vẫn vắng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm, đồng thời vào ngày 14/6/2019 chị Nguyễn Thị T có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và xét xử vắng mặt anh Huỳnh Văn B là phù hợp với quy định tại các điều 207, 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về hôn nhân:

[3.1] Việc kết hôn giữa chị T với anh B tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre vào năm 2018 là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận.

[3.2] Tuy nhiên, chị T cho rằng cuộc hôn nhân đã không còn hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn với anh B. Trên cơ sở lời trình bày của chị T, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định được giữa chị T và anh B có phát sinh mâu thuẫn, đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2019 cho đến nay mà không thể đoàn tụ được, giữa anh chị không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau mà mạnh ai nấy sống. Đồng thời anh B cũng không có mặt tại Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhằm mục đích đoàn tụ; từ đó cho thấy quan hệ hôn nhân giữa chị T với anh B đã đến mức trầm trọng, không thể đoàn tụ để tiếp tục cuộc sống chung của vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị T về việc ly hôn với anh B là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, về con chung, về tài sản chung, về nợ chung: Anh B vắng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và cũng không gửi cho Tòa án văn bản nào thể hiện ý kiến của anh có yêu cầu về việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, về tài sản chung, về nợ chung, hay về con chung; chị T không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, trình bày là chưa có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và trình bày là không có nợ; đồng thời Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre cũng không nhận được đơn yêu cầu giải quyết về nợ có liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T là người khởi kiện yêu cầu ly hôn nên chị phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các điều 5, 147, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, cụ thể:

1/ Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Huỳnh Văn B.

2/ Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Huỳnh Văn B chưa có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3/ Về việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, về tài sản chung, về nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết do không có ai yêu cầu.

4/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là: 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003581 ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre, chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án: Chị Nguyễn Thị T có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, riêng anh Huỳnh Văn B vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre nhận được bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 30/07/2019 về ly hôn

Số hiệu: 60/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về