Bản án 61/2018/HS-PT ngày 04/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 218/2018/HSST NGÀY 4/7/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 69/2018/TLPT-HS ngày 15 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo Đinh Văn H cùng đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo Đinh Văn H; Nguyễn Văn N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2018/HS-ST ngày 06 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Đinh Văn H, sinh năm 1976, tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm 21, xã N, huyện L, tỉnh Nghệ An; chỗ ở hiện nay: Số 171, tổ 18B, ấp A, xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Đinh Văn S, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1955; vợ tên Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1983; có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 16/5/2017 đến ngày 30/6/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 1982, tại tỉnh Quảng Bình; thường trú: Xóm 9, xã Q, huyện Tr, tỉnh Quảng Bình; chỗ ở: Thôn 3, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Công H, sinh năm 1953 và bà Phạm Thị Th, sinh năm 1957; vợ tên Phạm Thị L, sinh năm 1990; có 02 con lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Đinh Văn H: Ông Nguyễn Thành H, Luật sư Văn phòng Luật sư Nguyễn Thành H, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai, có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 03 bị cáo khác và 01 nguyên đơn dân sự do không có kháng cáo, không bị kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn Công B là tài xế xe tải biển số 61LD - 00056 của Công ty Trách nhiệm hữu hạn S Việt Nam (gọi tắt là Công ty S) Đinh Văn H là tổ trưởng bộ phận tạo hạt, Nguyễn Kh, Nguyễn Văn N và Trương Nhật M là công nhân tại bộ phận tạo hạt của Công ty S thuộc khu công nghiệp A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Khoảng đầu tháng 02/2017, B, H, Kh, N và M ngồi uống bia tại quán “1.000” thuộc khu phố Nh, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương, trong lúc ăn uống thì B rủ cả nhóm lấy hạt nhựa của Công ty S bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. B dặn Hiệp khi nào có hạt nhựa và lấy bao nhiêu thì báo cho Bảo biết để B thông báo lại cho Kh, N và M lấy hạt nhựa bỏ lên xe tải biển số 61LD - 00056 để B điều khiển xe ra ngoài bán.

Quá trình điều tra đã xác định được B, H, Kh, M và N đã thực hiện hành vi chiếm đoạt hạt nhựa của Công ty S cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Giữa tháng 02/2017, H gọi điện cho B nói lấy được 14 bao hạt nhựa mỗi bao là 25 kg, sau đó B báo lại cho Kh, N và M biết. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Kh, N và M vào bộ phận tạo hạt lấy 14 bao hạt nhựa bỏ lên thùng xe tải biển số 61LD - 00056. Đến 06 giờ ngày hôm sau, B điều khiển xe chở 14 bao hạt nhựa ra đường số 3 khu công nghiệp A bán cho H (không rõ nhân thân) được 3.500.000 đồng. B hưởng 900.000 đồng, H 800.000 đồng, Kh 700.000 đồng, M 600.000 đồng, N 500.000 đồng.

Tài sản bị chiếm đoạt là 14 bao hạt nhựa, mỗi bao trọng lượng 25kg, trị giá 9.922.500 đồng.

Lần thứ hai: Đầu tháng 3/2017, H gọi điện cho B nói lấy được 14 bao hạt nhựa mỗi bao là 25 kg, sau đó B báo lại cho Kh và M biết. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Kh và M vào bộ phận tạo hạt lấy 14 bao hạt nhựa bỏ lên thùng xe tải biển số 61LD - 00056. Đến 06 giờ ngày hôm sau, B điều khiển xe chở 14 bao hạt nhựa ra đường số 3 khu công nghiệp A bán cho H (không rõ nhân thân) được 3.500.000 đồng. B lấy 900.000 đồng, H 800.000 đồng, Kh 800.000 đồng, M 1.000.000 đồng.

Tài sản bị chiếm đoạt là 14 bao hạt nhựa, mỗi bao trọng lượng 25kg, trị giá 9.922.500 đồng.

Lần thứ 3: Giữa tháng 04/2017, H gọi điện cho B nói lấy được 16 bao hạt nhựa mỗi bao là 25 kg, sau đó B báo lại cho Kh, N và M biết. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Kh, N và M vào bộ phận tạo hạt lấy 16 bao hạt nhựa bỏ lên thùng xe tải biển số 61LD - 00056. Đến 06 giờ ngày hôm sau, Bảo điều khiển xe chở 16 bao hạt nhựa ra đường số 3 khu công nghiệp A bán cho H (không rõ nhân thân) được 3.500.000 đồng, B lấy 1.100.000 đồng, H 900.000 đồng, Kh 800.000 đồng, M 600.000 đồng và N được 600.000 đồng.

Tài sản bị chiếm đoạt là 16 bao hạt nhựa, mỗi bao trọng lượng 25kg, trị giá 11.340.000 đồng.

Lần thứ tư: Cuối tháng 04/2017, H gọi điện cho B nói lấy được 14 bao hạt nhựa mỗi bao là 25 kg, sau đó B báo lại cho N và M biết. Khoảng 22 giờ cùng ngày, N và M vào bộ phận tạo hạt lấy 14 bao hạt nhựa bỏ lên thùng xe tải biển số 61LD - 00056. Đến 06 giờ ngày hôm sau, B điều khiển xe chở 14 bao hạt nhựa ra đường số 3 khu công nghiệp A bán cho H (không rõ nhân thân) được số tiền 3.500.000 đồng, B lấy 900.000 đồng, H 800.000 đồng, M 900.000 đồng và N được 900.000 đồng.

Tài sản bị chiếm đoạt là 14 bao hạt nhựa, mỗi bao trọng lượng 25kg, trị giá 9.922.500 đồng.

Lần thứ năm: Khoảng 16 giờ ngày 11/5/2017, H gọi điện cho B nói lấy được 20 bao hạt nhựa mỗi bao là 25 kg, sau đó B báo lại cho Kh, N và M biết. Khoảng 22 giờ cùng ngày thì Kh, N và M đi vào bộ phận tạo hạt lấy 20 bao hạt nhựa bỏ lên thùng xe tải biển số 61LD - 00056. Đến 06 giờ ngày hôm sau, B điều khiển xe chở 20 bao hạt nhựa ra đường số 3 khu công nghiệp A bán cho H (không rõ nhân thân) được 5.000.000 đồng. B lấy 1.300.000 đồng, H 1.200.000 đồng, Kh 800.000 đồng, M 900.000 đồng và N được 800.000 đồng.

Tài sản bị chiếm đoạt là 20 bao hạt nhựa, mỗi bao trọng lượng 25kg, trị giá 14.175.000 đồng.

Lần thứ sáu: Khoảng 16 giờ ngày 15/5/2017, H gọi điện cho B nói lấy được 20 bao hạt nhựa mỗi bao là 25 kg, sau đó B báo cho Kh và M biết. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Kh và M đi vào bộ phận tạo hạt lấy 20 bao hạt nhựa bỏ lên thùng xe tải biển số 61LD - 00056. Đến 06 giờ ngày 16/5/2017, B điều khiển xe chở 20 bao hạt nhựa ra đường số 3 khu công nghiệp A bán cho H (không rõ nhân thân). Trong lúc đang thực hiện việc mua bán thì bảo vệ của Công ty S phát hiện, bắt giữ được B, H chạy thoát.

Tài sản bị chiếm đoạt là 20 bao hạt nhựa, mỗi bao trọng lượng 25kg, trị giá 14.175.000 đồng.

Vật chứng: Xe ô tô tải biển số 61LD - 00056; điện thoại di động OPPO màu trắng, sim số 01673044104; điện thoại di động Samsung G361, sim số 0932863502.

Theo kết luận định giá số 112/BB.ĐG ngày 01/6/2017 của Hội đồng định giá thị xã D kết luận: Tài sản bị chiếm đoạt là 98 bao hạt nhựa, mỗi bao 25kg (1kg có giá 28.350 đồng), tổng giá trị 69.457.500 đồng; đã thu hồi được 20 bao trả lại cho Công ty S, số tài sản không thu hồi được là 78 bao trị giá 55.282.500 đồng.

Ngày 16/5/2017, Nguyễn Kh và Đinh Văn H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đầu thú.

Ngày 22/8/2017, Nguyễn Văn N đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đầu thú.

Ngày 05/10/2017, Trương Nhật M đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đầu thú.

Tại cáo trạng số 18/QĐ - KSĐT ngày 27 tháng 12 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Đoàn Công B, Đinh Văn H, Trương Nhật M, Nguyễn Kh về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2018/HS-ST ngày 06/4/2018 của Tòa án nhân dân thị xã D tuyên xử:

- Bị cáo Đinh Văn H phạm tội trộm cắp tài sản. Áp dụng điểm h, khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm C khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tù.

- Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội trộm cắp tài sản. Áp dụng điểm h, khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 12/4/2018, bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 19/4/2018, bị cáo Đinh Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên tòa phúc thẩm, thể hiện như sau:

Về tố tụng: Bị cáo kháng cáo bản án trong thời gian quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm để xem xét giải quyết kháng cáo của các bị cáo là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.

Về yêu cầu kháng cáo của các bị cáo: Đối với bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội nhiều lần nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là thiếu sót cần rút kinh nghiệm. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo cung cấp các loại giấy tờ là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với từng bị cáo là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội, nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã D.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với tội danh và điều luật mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng. Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết về pháp luật nên bị cáo H không cung cấp cho Tòa án các loại giấy tờ là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: gia đình của bị cáo H là người có công với cách mạng (bộ đội trường sơn), bị cáo là lao động chính trong gia đình, là người chu cấp nuôi dưỡng bố vợ, em ruột của bị cáo bị bệnh tâm thần, bị cáo có nhân thân tốt, có việc làm ổn định. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết này cho bị cáo H được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện phụ giúp gia đình và lo cho người thân.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo về phần hình phạt. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2018/HS-ST ngày 06/4/2018 của Tòa án nhân dân thị xã D đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo và các đồng phạm tại phiên tòa sơ thẩm cũng như các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 02/2017 đến ngày 15/5/2017, các bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Công ty S là 98 bao hạt nhựa, trong đó bị cáo Đinh Văn H tham gia 06 lần, chiếm đoạt 98 bao hạt nhựa có tổng trị giá 69.457.500 đồng; Bị cáo Nguyễn Văn N tham gia 04 lần, chiếm đoạt 64 bao hạt nhựa, có trị giá 45.360.000 đồng. Hành vi của bị cáo H thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 và hành vi bị cáo N được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Hành vi trộm cắp tài sản của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của nguyên đơn dân sự và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức, các bị cáo nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của nguyên đơn dân sự là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam tư lợi các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 và bị cáo N theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đối với bị cáo Nguyễn Văn N tham gia 04 lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng điểm g Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là thiếu sót, tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo N là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

Đối với bị cáo Đinh Văn H: Tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị cáo H cung cấp: Kỷ niệm chương chiến sỹ trường sơn đường Hồ Chí Minh của ông Đinh Văn S là cha ruột của bị cáo, đơn tường trình hoàn cảnh gia đình, Quyết định hưởng trợ cấp xã hội và Giấy xác nhận khuyết tật của em gái Đinh Thị M; Đơn xác nhận có chu cấp nuôi bố vợ là Lê Văn H bị bệnh tâm thần. Căn cứ Khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì những giấy tờ tài liệu trên thuộc các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm năm 2015. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử đối với bị cáo H là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn N: Tại Tòa án cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp: Giấy xác nhận hội viên Hội nạn nhân chất độc da cam của cha là ông Nguyễn Công H và Nguyễn Chiến Th, Nguyễn Quyết Th (em ruột). Đây không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo N, H, Hội đồng xét xử nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá vai trò đồng phạm cũng như nhân thân của từng bị cáo và tuyên phạt: Bị cáo Đinh Văn H 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tù, bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[3] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Đinh Văn H đề nghị giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo Hiệp được hưởng án treo là không có cơ sở chấp nhận.

[4] Ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã D là phù hợp với phân tích đánh giá của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận, nên các bị cáo phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đinh Văn H; Nguyễn Văn N. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2018/HS-ST ngày 06/4/2018 của Tòa án nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương về hình phạt đối với các bị cáo Đinh Văn H, Nguyễn Văn N:

1.1. Áp dụng điểm h, khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; điểm C khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 ; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn H 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 16/5/2017 đến ngày 30/6/2017.

1.2. Áp dụng điểm h, khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Các bị cáo Đinh Văn H, Nguyễn Văn N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

3. Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

349
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2018/HS-PT ngày 04/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:61/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về