Bản án 61/2019/HNGĐ-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 61/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 11 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 377/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự.

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Kim D, sinh năm 1981; thường trú: Số 35 đường S khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1976; thường trú: Số 35 đường S khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Chị Nguyễn Kim D có yêu cầu giải quyết vắng mặt ngày 04/6/2019, ông Nguyễn Văn V vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12/4/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Kim D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Kim D tìm hiểu, chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn D, huyện D (nay là UBND phường D, thị xã D) tỉnh Bình Dương vào ngày 28/9/2001 theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 157/2001, quyển số 1. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh nhiều mâu thuẩn. Năm 2010, bà Nguyễn Kim D đã làm đơn xin ly hôn nhưng Tòa án không chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Nguyễn Kim D. Từ năm 2010 đến nay vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẩn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông Nguyễn Văn V có quan hệ ngoài hôn nhân với người phụ nữ khác ngoài xã hội. Bà Nguyễn Kim D xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn V.

Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Anh D, sinh ngày 11/9/2001 và cháu Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 08/01/2012. Sau khi ly hôn, bà Nguyễn Kim D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh Nguyễn Văn V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Văn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào ngày 25/6/2019 và ngày 11/7/2019 nhưng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Bà Nguyễn Kim D khởi kiện “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” được quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn có địa chỉ tại số 35 đường S khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã D theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 04/6/2019 nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 25/6/2019 và ngày 11/7/2019 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Kim D và ông Nguyễn Văn V kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn D, huyện D (nay là UBND phường D, thị xã D) tỉnh Bình Dương vào ngày 28/9/2001 theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 157/2001, quyển số 1 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Bà Nguyễn Kim D xác định sau khi kết hôn, 10 năm đầu vợ chồng sống hạnh phúc. Đến năm 2010, vợ chồng thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm sống; tính tình không hợp, bà Nguyễn Kim D nghi ngờ ông Nguyễn Văn V có quan hệ ngoài hôn nhân với người phụ nữ khác ngoài xã hội. Năm 2010, bà Nguyễn Kim D đã một lần làm đơn xin ly hôn tại Tòa án thị xã D nhưng không được chấp nhận yêu cầu xin ly hôn. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên bà Nguyễn Kim D yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn V. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập ông Nguyễn Văn V đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông Nguyễn Văn V không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Kim D đã thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt.

Việc ông Nguyễn Văn V bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với bà Nguyễn Kim D cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà Nguyễn Kim D và ông Nguyễn Văn V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của chị Nguyễn Kim D.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có có 02 con chung là cháu Nguyễn Anh D, sinh ngày 11/9/2001 và cháu Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 08/01/2012. Bà Nguyễn Kim D yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông Nguyễn Văn V cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Quá trình tố tụng, ông Nguyễn Văn V vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý chí mong muốn được nuôi con. Trong thời gian trước đây và hiện nay 02 con chung vẫn do bà Nguyễn Kim D nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Hai cháu Nguyễn Anh D và Nguyễn Ngọc Bảo H có nguyện vọng được sống chung với mẹ nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có cơ sở để chấp nhận nguyện vọng của của bà Nguyễn Kim D là được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 02 con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Kim D không yêu cầu ông Nguyễn Văn V cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Kim D phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Kim D được ly hôn với ông Nguyễn Văn V. (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 157/2001, quyển số 1 do Uỷ ban nhân dân thị trấn D, huyện D (nay là UBND phường D, thị xã D) tỉnh Bình Dương cấp ngày 28/9/2001).

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Nguyễn Anh D, sinh ngày 11/9/2001 và cháu Nguyễn Ngọc Bảo H, sinh ngày 08/01/2012 cho bà Nguyễn Kim D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trường hợp ông Nguyễn Văn V vi phạm quyền nuôi con chung của bà Nguyễn Kim D thì bà Nguyễn Kim D có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án có thẩm quyền buộc ông Nguyễn Văn V giao con chung cho bà Nguyễn Kim D nuôi dưỡng theo quyết định của Tòa án. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Kim D không yêu cầu ông Nguyễn Văn V cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, bà Nguyễn Kim D và ông Nguyễn Văn V đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp ông Nguyễn Văn V lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc bà Nguyễn Kim D nuôi con thì bà Nguyễn Kim D có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Kim D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí về ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp theo biên lai số 0028447 ngày 23/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

5. Án xử công khai, tuyên án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

6. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HNGĐ-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:61/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về