Bản án 61/2019/HSST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 61/2019/HSST NGÀY 26/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 65/2018/HSST ngày 30/8/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1.Họ và tên: Đỗ Thanh H (Tên gọi khác: Không có tên gọi khác); sinh năm 1987; Nơi sinh: Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 1212, đường Phú Riềng Đỏ, khu phố 2, phường Tân Đồng, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; Nơi cư trú: Số 1212, đường Phú Riềng Đỏ, khu phố 2, phường Tân Đồng, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không có nghề nghiệp ổn định; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Quang Vinh, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Thịnh, sinh năm 1965 và 01 người em ruột, sinh năm 1993; Tiền án: Bị Toà án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” bằng bản án số 104/2016/HSST ngày 19/82016, chấp hành xong ngày 25/12/2017 chưa được xoá án tích; Tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/12/2018 cho đến nay. Có mặt

2.Họ và tên: Lưu Xuân P (tên gọi khác: Chuột); sinh năm 1994; Nơi sinh: Nam Định; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 7, xã Long Tân, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước; Nơi cư trú: Thôn 7, xã Long Tân, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không có nghề nghiệp ổn định; Trình độ học vấn: 10/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lưu Xuân Hưởng, sinh năm 1954 và bà Lê Thị Hợi, sinh năm 1954; có vợ tên là Phạm Thị Linh, sinh năm 1995 và 01 người con ruột, sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/12/2018 cho đến nay. Có mặt

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Hoàng Thị N, sinh năm 1996

Nơi cư trú: số 1204 đường Phú Riềng Đỏ, phường Tân Đồng, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 45 phút ngày 25/12/2018, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Công an tỉnh Bình Phước kết hợp Công an huyện Đồng Phú và Công an xã Thuận Phú kiểm tra hành chính căn nhà cho thuê thuộc ấp Thuận H, xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Tại thời điểm kiểm tra có Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P và Nguyễn Huyền Sương, qua kiểm tra phát hiện tại phòng ngủ số 2, trong tủ gỗ có 01 vỏ hộp giấy, màu trắng, loại đựng điện thoại di động hiệu Iphone bên trong có: 02 cân tiểu ly điện tử, 01 kéo bằng kim loại dài 10cm, 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa 27 viên nén màu xanh, hình tam giác, nghi là ma túy [niêm phong, ký hiệu M1] và 06 bịch nylon chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy [niêm phong, ký hiệu M2]; 01 túi xách màu đen, xung quanh đính các hạt màu ánh kim bên trong có 01 bịch nylon chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy [niêm phong, ký hiệu M3]; tinh thể màu trắng, nghi là ma túy còn dính trên đĩa sứ tại nền nhà [niêm phong, ký hiệu M4]. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và gửi các vật nghi là ma túy để giám định. Ngoài ra, còn thu giữ 01 bình thủy tinh hình bông hoa một đầu màu xanh, một đầu không màu; 08 đoạn ống thủy tinh dài 20cm; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ ngân hàng và 01 đoạn ống hút nhựa dài 05cm; thu giữ của Đỗ Thanh H: 4.925.000đ (Bốn triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng), 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen có 2 số sim thuê bao (sim 1 số 0973027323 và sim 2 số 0839388393) và 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 6S, màu xám, sim thuê bao số 0976499993; thu giữ của Lưu Xuân P: 466.000đ (Bốn trăm sáu mươi sáu ngàn đồng), 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, sim thuê bao số 0968292379 và 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7, màu xanh ngọc [bút lục 01-05, 70, 78 - 85; 97 - 116].

Quá trình điều tra H và P khai nhận, số ma túy thu giữ vỏ hộp giấy, màu trắng, loại đựng điện thoại di động hiệu Iphone là của Bùi Văn Sửu (tên thường gọi Sửu trâu) và cả hai người đều biết rõ Sửu cất giấu ma túy để bán lại cho người nghiện. Ngoài ra, trong thời gian trước ngày bị bắt quả tang, H và P đến ở cùng với Sửu để giúp Sửu bán ma túy nhiều lần cho các người nghiện, đổi lại được Sửu cho ma túy sử dụng và cho tiền tiêu xài, [Bút lục: 186 - 214; 215 - 243; 361 - 368]. Cụ thể như sau:

Ngày 19/12/2018, Ngô Hữu Thành (tên thường gọi Thành sim dùng điện thoại số 0961593593 gọi cho Bùi Văn Sửu số 0981950955 để hỏi mua ma túy với số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm ngàn đồng) để sử dụng thì Sửu đồng ý. Thành được Sửu nhắn cho số điện thoại số 0968292379 là số điện thoại của P để liên hệ giao, nhận ma túy. Do Sửu về thành phố H Phòng nên P được Nguyễn Thị Hằng (Là người yêu của Sửu) đưa ma túy để bán cho Thành. Đến ngày 20/12/2018, Thành trả tiền đã mua ma túy của Sửu, bằng cách chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng của Thành, tên tài khoản “NGO HUU THANH” đến tài khoản của H, đăng ký tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) chi nhánh Bình Phước, tên tài khoản “DO THANH HAI” số 19032675861013 (H cho Sửu sử dụng chung tài khoản). Ngoài ra, Thành khai vào ngày 18/12/2018 cũng 01 lần gọi điện thoại mua ma túy của Sửu để sử dụng và P là người giao ma túy cho Thành nhưng P khai không nhớ [bút lục: 129, 174, 262, 263, 361].

Bán cho Võ Thị Chiêu Oanh (tên thường gọi Móm) 2 lần [bút lục: 130, 208, 266, 267; 367, 368]:

Lần đầu: Vào khoảng 22 giờ tháng 12/2018 (không rõ ngày), Oanh dùng số điện 03697475039 gọi cho Sửu số 0981950955 để hỏi mua ma túy thì Sửu đồng ý.

Lúc này, P đang ở tại nhà của Sửu thuê thuộc ấp Thuận H, xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước và được Sửu đưa 03 viên ma túy, màu xanh, hình tam giác (có đặc điểm như 27 viên ma túy, thường gọi là “kẹo” thu giữ trong vụ án vào ngày 25/12/2018) và số điện thoại của Oanh để liên lạc và bán ma túy. Sau đó, P thuê xe ô tô “Taxi” đến gặp Oanh tại quán “Bar HV” thuộc phường Tân Bình, thành phố Đồng Xoài giao ma túy xong rồi về, còn tiền thì Oanh trả cho Sửu;

Lần hai: Vào khoảng 21 giờ ngày 22/12/2018, Oanh gọi điện thoại hỏi mua ma túy của Sửu (như lần đầu). Lúc này, Sửu và H đang ở gần khu vực tượng đài tưởng niệm “Chiến thắng Đồng Xoài” thuộc phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài nên Sửu gọi P đến thì được H đưa 02 viên ma túy, màu xanh, hình tam giác, loại “kẹo” và 01 bịch ma túy tổng hợp, loại “khay” để đi giao cho Oanh tại quán “Bar Latin” thuộc phường Tân Xuân, thành phố Đồng Xoài thì P đồng ý. Sau khi giao ma túy xong, P được Oanh trả tiền mang về cho Sửu (Oanh và P không nhớ cụ thể bao nhiêu tiền).

Khong 11 giờ 25/12/2018, Bùi Vũ Phú Quý, sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú: Khu phố Tân Trà, phường Tân Xuân, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước dùng điện thoại số 0942274579 gọi cho Sửu số 0981950955 để hỏi mua ma túy tổng hợp, dạng “khay” với số tiền 3.700.000đ(Ba triệu bảy trăm ngàn đồng) thì Sửu đồng ý. Sau đó, Sửu gọi điện thoại cho H lấy 01 bịch ma túy trong số ma túy có trong vỏ hộp giấy, màu trắng, loại đựng điện thoại di động hiệu Iphone bên trong tủ gỗ tại nhà Sửu thuê để giao cho Quý thì H đồng ý. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, H mang số ma túy này đến giao cho Quý xong thì đi về. Sau khi mua được ma túy, Quý đã sử dụng hết một phần và phần còn lại cất giấu trong người để sử dụng tiếp. Ngày 26/12/2018, Quý nhờ Hoàng Thị Ngân (Ngân là bạn gái của Quý) chuyển số tiền 3.500.000đ(Ba triệu năm trăm ngàn đồng) để trả tiền mua ma túy của Sửu, bằng cách chuyển khoản đến tài khoản của Nguyễn Thị Hằng số 1901206169824, đăng ký tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) chi nhánh Bình Phú, thành phố Hồ Chí Minh, Quý còn nợ lại 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng). Đến ngày 27/12/2018, Quý biết được H bị bắt nên đã giao nộp số ma túy còn lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước [Bút lục: 68, 69, 134, 144, 145, 270 - 276; 281 - 283; 362].

Tại Bản kết luận giám định số 414/2018/GĐKTHS ngày 29/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước, kết luận:

-27 (hai mươi bảy) viên nén (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 10,3837 (Mười phẩy ba tám ba bảy) gam, loại MDMA.

-Tinh thể màu trắng (ký hiệu M2-1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 23,0529 (Hai mươi ba phẩy không năm hai chín) gam, loại Ketamine.

-Tinh thể màu trắng (ký hiệu M2-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 1,9693 (Một phẩy chín sáu chín ba) gam, loại Ketamine.

-Chất bột màu trắng (ký hiệu M3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 2,4149 (Hai phẩy bốn một bốn chín) gam, loại Ketamine.

-Chất màu trắng bám dính trong bịch nylon (ký hiệu M4) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine. Mẫu ở dạng vết không xác định được khối lượng.

Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu hoàn lại sau giám định được niêm phong có khối lượng: M1 = 8,1044 gam, M2-1 = 20,0573 gam, M2-2 = 1,5248 gam, M3 = 1, 5033 gam” [bút lục: 70, 71, 86].

Tại Bản kết luận giám định số 415/2018/GĐKTHS ngày 29/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước, kết luận:

Tinh thể màu trắng có trong 01 (một) gói nylon (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,0425 (Không phẩy không bốn hai năm) gam, loại Ketamine. Mẫu đã sử dụng hết cho công tác giám định” [bút lục: 72, 91].

Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 28/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”:

Về hình phạt:

-Áp dụng điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh H mức án từ 09 (Chín) đến 10 (Mười) năm tù.

-Áp dụng điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lưu Xuân P mức án từ 08 (Tám) đến 09 (Chín) năm tù.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

-Tuyên tịch thu, tiêu hủy: 03 phong bì được niêm phong, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn H và Điều tra viên Văn Đình Thuận và dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước (ký hiệu số 414M1, 414M2 và 414M3); 01 vỏ hộp giấy, màu trắng, loại đựng điện thoại di động hiệu Iphone; 02 cân tiểu ly điện tử; 01 kéo bằng kim loại dài 10cm; 01 bình thủy tinh hình bông hoa một đầu màu xanh, một đầu không màu; 08 đoạn ống thủy tinh dài 20cm; 01 giỏ xách màu đen, xung quanh đính các hạt màu ánh kim; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa ngân hàng và 01 đoạn ống hút nhựa dài 05cm.

-Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, có 2 số sim thuê bao (số 0973027323 và số 0839388393) và 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 6S, màu xám, có số sim thuê bao 0976499993 của bị cáo Đỗ Thanh H cùng với 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, có số sim 0968292379 của bị cáo Lưu Xuân P.

-Trả lại cho bị cáo Đỗ Thanh H 01 xe mô tô biển số 93P1-511.11; trả lại cho bị cáo Lưu Xuân P 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7, màu xanh ngọc, số sim 0971133181.

-Quản thủ số tiền 4.925.000đ (Bốn triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng) của bị cáo Đỗ Thanh H và số tiền 466.000đ (Bốn trăm sáu mươi sáu ngàn đồng) của bị cáo Lưu Xuân P để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Về thủ tục tố tụng: Quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp P.

[2]Tại phiên toà các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Xét lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nội dung Cáo trạng số 30/CTr-VKS ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, phù hợp với lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang lập ngày 25/12/2018, phù hợp với các Kết luận giám định số 414/2018/GĐKTHS, số 415/2018/GĐKTHS ngày 29/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 19/12/2018 đến ngày 25/12/2018, Bùi Văn Sửu cùng với Lưu Xuân P, Đỗ Thanh H đã bán ma túy cho Ngô Hữu Thành 01 lần, Võ Thị Chiêu Oanh 02 lần, Bùi Vũ Phú Quý 01 lần. Ngày 25/12/2018, bị Công an phát hiện thu giữ ma túy có khối lượng 10,3837 gam ma túy loại MDMA và 25,0647 gam loại Ketamine tại ấp Thuận H, xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Hành vi mà bị cáo đã thực hiện phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P bán ma túy cho nhiều người với nhiều thời điểm khác nhau, mỗi lần bán ma túy đều cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, số lượng ma túy thu giữ là 10,3837 gam loại MDMA và 25,0647 gam loại Ketamine. Đây là tình tiết định khung được quy định tại các điểm b (Phạm tội 02 lần trở lên), c (Mua bán với 02 người trở lên) và p (Có 02 chất ma tuý khác trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;). Vì vậy, các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện quy định tại các điểm b, c, p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3]Hành vi mà các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước trong việc cất giữ, bảo quản các chất ma túy, một khách thể được Pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự tại địa phương, ảnh hưởng đến lối sống lành mạnh của cộng đồng dân cư. Trong tình hình hiện nay, tội phạm ma túy có chiều hướng gia tăng và bằng các thủ đoạn tinh vi nhằm mục đích thu lợi bất chính, gây ra nhiều hậu quả xấu về mặt xã hội, Nhà nước đã có các biện pháp tuyên truyền giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng về tác hại của ma túy đối với đời sống xã hội và ảnh hưởng đến sức khỏe con người nên cần phải có biện pháp cứng rắn nhằm răng đe những đối tượng mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, nhận thức được việc mua bán chất ma túy là hành vi bị Pháp luật nghiêm cấm, gieo rắc cái chết trắng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên, người nghiện ma túy và sẽ bị Pháp luật nghiêm trị song vì tư lợi, các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như đã phân tích ở trên.

[4]Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn, các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P là đồng phạm với vai trò là người giúp sức cho đối tượng Bùi Văn Sửu thực hiện việc mua bán ma tuý, là người trực tiếp đi giao ma túy cho các đối tượng nghiện, thu tiền bán ma túy. Lẽ ra, khi đối tượng Bùi Văn Sửu giao ma túy cho các bị cáo cất giữ và bán ma túy thì các bị cáo phải khuyên can đối tượng Bùi Văn Sửu hoặc báo cho cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn hành vi của đối tượng Bùi Văn Sửu nhưng ngược lại các bị cáo lại đồng ý, tiếp nhận ngay ý định phạm tội của đối tượng Bùi Văn Sửu. Xét thấy, cần xử các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P bằng một mức án nghiêm, tù có thời hạn, tương xứng với từng hành vi phạm tội của mỗi bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo. Trước đây và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi bán trái phép chất ma túy của mình, đồng thời có thái độ ăn năn hối cải, muốn được sự giảm nhẹ để cải tạo bản thân, bị cáo Đỗ Thanh H có ông bà là người có công với cách mạng, bị cáo Lưu Xuân P có con nhỏ dưới 36n tháng tuổi, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 sẽ được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Đối với bị cáo Đỗ Thanh H, bị Tòa án nhân dân thị xã Đổng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xoá án tích mà tiếp tục phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "Tái phạm" được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5]Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5, Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Đối với đối tượng Bùi Văn Sửu do không rõ đang ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) Công an tỉnh Bình Phước đã ra Quyết định truy nã số 135 ngày 22/7/2019, khi nào bắt được được đề nghị xử lý sau [bút lục 324 - 332] nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với Nguyễn Thị Hằng quá trình điều tra xác minh không mặt tại địa phương để làm việc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) Công an tỉnh Bình Phước tiếp tục xác minh khi có kết quả đề nghị xử lý sau [bút lục 315 - 322] nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với Nguyễn Huyền Sương không biết Bùi Văn Sửu cất giấu ma túy và cũng không biết Đỗ Thanh H bán ma túy cho Bùi Vũ Phú Quý nên không đủ cơ sở để xử lý [bút lục 244 - 254] nên Hội đồng xét xử không xem xét Đối với Bùi Vũ Phú Quý mua ma túy của Bùi Văn Sửu để sử dụng, số ma túy Quý giao nộp có khối lượng là 0,0425 gam, loại Ketamine, không đủ định lượng làm căn cứ để xử lý hình sự. Hiện nay, Quý đã bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài ra quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc nên không xem xét, xử lý.

Đi với Ngô Hữu Thành và Võ Thị Chiêu Oanh đã mua ma túy từ Bùi Văn Sửu, Đỗ Thanh H và Lưu Xuân P để sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) Công an tỉnh Bình Phước đã có văn bản đề nghị Công an thành phố Đồng Xoài ra quyết định xử lý theo quy định Pháp luật nên không không xem xét, xử lý.

Đi với ma túy thu giữ 01 túi xách màu đen, xung quanh đính các hạt màu ánh kim, qua giám định có khối lượng là 2,4149 gam, loại Ketamine. Bị cáo Đỗ Thanh H khai là của Nguyễn Huyền Sương nhưng Sương không thừa nhận và không có tài liệu chứng cứ khác để chứng minh. Qua xác minh Nguyễn Huyền Sương không có tên đăng ký hộ khẩu thường trú nên không làm việc được nên không có căn cứ để xử lý [bút lục 369].

[7] Vật chứng vụ án:

Đi với 01 xe mô tô biển số 93P1-511.11 là tài sản riêng của bị cáo Đỗ Thanh H nên trả cho bị cáo Đỗ Thanh H; đối với 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7, màu xanh ngọc, số sim 0971133181 là tài sản riêng của bị cáo Lưu Xuân P không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo P.

Đi với 03 phong bì được niêm phong, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn H và Điều tra viên Văn Đình Thuận và dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước (ký hiệu số 414M1, 414M2 và 414M3); 01 vỏ hộp giấy, màu trắng, loại đựng điện thoại di động hiệu Iphone; 02 cân tiểu ly điện tử; 01 kéo bằng kim loại dài 10cm; 01 bình thủy tinh hình bông hoa một đầu màu xanh, một đầu không màu; 08 đoạn ống thủy tinh dài 20cm; 01 giỏ xách màu đen, xung quanh đính các hạt màu ánh kim; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa ngân hàng và 01 đoạn ống hút nhựa dài 05cm là vật có liên quan đến vụ án và các dụng cụ để sử dụng ma túy là vật chứng vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, có 2 số sim thuê bao (số 0973027323 và số 0839388393) và 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 6S, màu xám, có số sim thuê bao 0976499993 của bị cáo Đỗ Thanh H cùng với 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, có số sim 0968292379 của bị cáo Lưu Xuân P sử dụng để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đi với số tiền 4.925.000đ(Bốn triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng) của bị can Đỗ Thanh H và số tiền 466.000đ (Bốn trăm sáu mươi sáu ngàn đồng) của bị can Lưu Xuân P cần quản thủ của mỗi bị cáo là 200.000đồng để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí: các bị cáo phải chịu theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P (tên gọi khác: Chuột) phạm “Tội Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2] Áp dụng điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Đỗ Thanh H 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2018.

Áp dụng điểm b, c, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lưu Xuân P (tên gọi khác: Chuột) 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2018.

[3] Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5, Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017

[4]Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu và tiêu hủy: 03 phong bì được niêm phong, có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn H và Điều tra viên Văn Đình Thuận và dấu mộc đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước (ký hiệu số 414M1, 414M2 và 414M3); 01 vỏ hộp giấy, màu trắng, loại đựng điện thoại di động hiệu Iphone; 02 cân tiểu ly điện tử; 01 kéo bằng kim loại dài 10cm; 01 bình thủy tinh hình bông hoa một đầu màu xanh, một đầu không màu; 08 đoạn ống thủy tinh dài 20cm; 01 giỏ xách màu đen, xung quanh đính các hạt màu ánh kim; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa ngân hàng và 01 đoạn ống hút nhựa dài 05cm

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, có 2 số sim thuê bao (số 0973027323 và số 0839388393) và 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 6S, màu xám, có số sim thuê bao 0976499993 của bị can Đỗ Thanh H cùng với 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, có số sim 0968292379 của bị can Lưu Xuân P.

Trả lại cho bị cáo Đỗ Thanh H 01 xe mô tô biển số 93P1-511.11; trả lại cho bị cáo Lưu Xuân P 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7, màu xanh ngọc, số sim 0971133181.

Quản thủ số tiền 4.925.000Đ (bốn triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng) của bị can Đỗ Thanh H và số tiền 466.000Đ (bốn trăm sáu mươi sáu ngàn đồng) của bị can Lưu Xuân P để đảm bảo thi hành án

[5]Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Đỗ Thanh H, Lưu Xuân P, mỗi bị cáo phải nộp án 200.000 đồng tiến phí hình sự sơ thẩm là.

[6]Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HSST ngày 26/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về