Bản án 61/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 31/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2019/HSST ngày 10/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Dương Văn H (Tên gọi khác: Dương Minh H) Sinh ngày 21 tháng 3 năm 1984 tại huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Nơi cư trú: Xóm G, xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn) 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn Ch, sinh năm 1956, con bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1957; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 01 tiền án; Tại Bản án số 19 ngày 30/3/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt Dương Văn H 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 14/11/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Nhân thân: Năm 2005 bị cáo bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Bản án số 27/2005/HSST ngày 22/6/2005 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; Ngày 16/8/2005 bị xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 39/2005/HSST của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Tổng hợp hình phạt của hai bản án là 42 tháng tù; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/5/2019, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Giàng Thị D, sinh năm 1988; Tạm trú tại tổ 1, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai, vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Vũ Ngọc Lân, trú tại tổ 7, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18h 45 phút ngày 25/5/2019, Dương Văn H đi bộ trên đường Kim Hà thuộc tổ 8, phường K, thành phố Li nhìn thấy chị Giàng Thị D điều khiển xe máy nhãn hiệu JUPITER, màu đen trắng, biển kiểm soát 24B1-01945 trên người có đeo một chiếc túi giả da nên nảy sinh ý định cướp giật tài sản của chị Giàng Thị D. Dương Văn H đi nhanh lại gần sát phía sau bên phải Giàng Thị D, dùng tay trái cầm thân túi xách, tay phải cầm một chiếc kéo mang theo cắt mạnh một nhát vào dây đeo của túi làm đứt dây đồng thời tay trái giật mạnh túi rồi cầm túi xách bỏ chạy theo hướng ra đường Hoàng Liên làm cho xe máy của chị Dính đang chở con nhỏ 15 tháng tuổi ngồi ở phía trước xe bị đổ ra đường. Khi phát hiện dây túi xách bị cắt, chị Giàng Thị D hô to “Cướp, cướp”. Khi nghe tiếng hô của chị Giàng Thị D, quần chúng nhân dân, tổ công tác của Công an phường Kim Tân và lực lượng Cảnh sát 113 Công an tỉnh Lào Cai cùng truy đuổi và bắt giữ được Dương Văn H.

Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ của Dương Văn H 01 (Một) chiếc kéo bằng kim loại dài 21cm, phần cán bọc nhựa mầu xanh, 01 (một) chiếc túi giả da, họa tiết da báo, nhãn hiệu BOLV dài 26cm, rộng 15cm, dây túi dài 105cm đã bị đứt. Bên trong túi có 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MI, mặt trước mầu trắng, mặt sau mầu vàng đã vỡ màn hình, 01 (một) giấy phép lái xe tên Giàng Thị D và số tiền 285.000 đồng (Hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng) tiền Việt Nam.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 06/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Lào Cai kết luận 01 (một) túi đeo (loại dùng cho phụ nữ), giả da, họa tiết da báo (đã qua sử dụng) có kích thước 26 x 15cm; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MI đã qua sử dụng mầu vàng đồng có tổng trị giá là 410.000đồng (Bốn trăm mười nghìn đồng). Tổng số tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị 695.000 đồng.

Cáo trạng số 64/CT-VKS- TPLC ngày 08/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố Dương Văn H (Dương Minh H) về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Văn H (Dương Minh H) phạm tội “Cướp giật tài sản”; Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt Dương Văn H (Dương Minh H) từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự do người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết. Về vật chứng đề nghị hội đồng xét xử điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kéo là công cụ phạm tội của bị cáo, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo cho rằng khi phát hiện thấy chủ sở hữu sơ hở trong lúc quản lý tài sản, bị cáo đã nảy sinh ý định cướp giật chiếc túi xách vì nghĩ rằng bên trong túi xách có tài sản.

Người bị hại là chị Giàng Thị D vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên các lời khai có trong hồ sơ thể hiện ngày 25/5/2019 trên đường Kim Hà thuộc tổ 8, phường K, thành phố L, khi đang điều khiển xe máy chở theo con nhỏ ngồi ở phía trước, chị bị kẻ gian giật 01 chiếc túi xách giả da, họa tiết da báo, nhãn hiệu BOLV dài 26 cm, rộng 15 cm, dây túi dài 105 cm đã bị đứt. Bên trong túi có 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MI, mặt trước mầu trắng, mặt sau mầu vàng đã vỡ màn hình, 01 (một) đăng ký xe mô tô tên Phan Văn Nam; 01 (một) chứng minh nhân dân, 01 (một) giấy phép lái xe tên Giàng Thị D và số tiền 285.000 đồng (Hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng) tiền Việt Nam làm cho xe máy đổ ra đường, 2 mẹ con bị xây xát nhẹ. Ngày 26/6/2019 chị Giàng Thị D đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm.

Người chứng kiến là anh Vũ Ngọc L vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên các lời khai của anh L trong quá trình điều tra đều phù hợp với lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Dương Văn H đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do vậy có đủ cơ sở khẳng định:

Vào khoảng 18 giờ 45 phút ngày 25/5/2019 trên đường Kim Hà thuộc tổ 8, phường K, thành phố L, bị cáo Dương Văn H đã có hành vi cướp giật 01 (một) túi đeo giả da, họa tiết da báo, bên trong túi xách có 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu MI mầu vàng đồng cùng một số giấy tờ tùy thân và số tiền 285.000 đồng, tổng trị giá tài sản là 695.000 đồng (Sáu trăm chín mươi lăm nghìn đồng) của chị Giàng Thị D trong khi chị D đang điều khiển xe máy, trên xe chở theo một cháu nhỏ làm xe máy đổ ra đường gây xây xát nhẹ cho mẹ, con chị D. Hành vi nêu trên của bị cáo Dương Văn H đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “ Dùng thủ đoạn nguy hiểm” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.

nh vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thừa nhận bản thân nghiện chất ma túy nên khi phát hiện có sự sở hở của chủ sở hữu bèn nảy ra mục đích cướp giật tài sản của chị Giàng Thị D để có tiền tiêu sài cá nhân. Bị cáo nhận thức được việc bất ngờ giật tài sản của chủ sở hữu trong khi họ đang điều khiển xe máy có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của họ nhưng bị cáo vẫn thực hiện.

[3]. Về nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Năm 2005, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xét xử với hai bản án và tổng hợp hình phạt 42 tháng tù. Ngày 12/3/2009 bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của bản án. Ngày 30/3/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt 42 tháng tù theo Bản án số 19 ngày 30/3/2015. Ngày 14/11/2017 bị cáo mới chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Theo quy định của pháp luật, đối với bản án này bị cáo chưa được xóa án tích. Vì vậy lần phạm tội này của bị cáo được tính là tái phạm. Do vậy cần áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử lý đối với bị cáo.

Về các tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử thấy rằng trong suốt quá trình tố tụng bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo. Bị cáo có bố đẻ là Dương Văn Ch được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì. Vì vậy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét tính chất, mức độ về hành vi nguy hiểm của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi của bị cáo cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có thể giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, đồng thời để ngăn chặn phòng ngừa chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định bị cáo không có tài sản riêng nên không phạt tiền là phù hợp.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Giàng Thị D đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (Một) chiếc kéo bằng kim loại dài 21cm, phần cán bọc nhựa mầu xanh là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Dương Văn H (Dương Minh H) 03 (Ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/5/2019.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) chiếc kéo bằng kim loại dài 21cm, phần cán bọc nhựa mầu xanh đã bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai theo nội dung biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/7/2019.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Dương Văn H (Dương Minh Hoàng) phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về