Bản án 62/2017/HSST ngày 01/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 62/2017/HSST NGÀY 01/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành,tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2017/HSST ngày09 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2017/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Đinh Quang C, sinh năm 1996; tại Bến Tre; ĐKTT: Ấp Ph, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê;

Trình độ văn hóa: 6/12;

Con ông Đinh Quang T và bà Nguyễn Thị T;

Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Nguyễn Thị Phƣơng Q, sinh năm 1998. ĐKTT: Ấp G, xã A,

huyện B, tỉnh Bến Tre. Có mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đinh Quang T, sinh năm 1974. ĐKTT: ấp Ph, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào  khoảng  16  giờ,  ngày  08/7/2017,  Đinh  Quang  C  điều  khiển  xe  môtô Yamaha Exciter biển số 71C2-227.16 đến nhà trọ Mỹ Đình ở ấp Phước Hòa, xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre để chở bạn gái Lê Thị Hồng G về quê. Khi đến nơi C thấy Nguyễn Thị Phương Q và Phạm Quỳnh N ở cùng phòng với G chuẩn bị đi làm ca đêm thì C nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Sau khi chở G về quê, C điều khiển xe trở lại phòng trọ để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. C dùng chìa khóa có được do G đưa C cất giữ dùm mở cửa phòng, dẫn xe vào phòng trọ đóng cửa lại rồi lấy số tiền 2.800.000 đồng trong ba lô và 01 điện thoại di động Nokia Lumia X của Q. C cất tiền và điện thoại lấy trộm được vào túi quần dẫn xe ra khỏi phòng khép cửa lại rồi điều khiển xe về nhà ở ấp Ph, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre. Sau đó, C trả nợ cho người tên T (không rõ địa chỉ) ở xã T, huyện B 1.000.000 đồng, còn lại số tiền 1.800.000 đồng  và 01 điện thoại di động C cất giữ. Sau khi chị Q đi làm về phòng trọ, phát hiện mất tài sản đã trình báo Công an xã Phú An Hòa. Qua làm việc, C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với chứng cứ đã thu thập và giao nộp số tài sản đã chiếm đoạt của chị Q.

Vật chứng thu giữ gồm: 1.800.000 đồng, 01 xe mô tô loại Exciter biển số71C2-227.16, 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia X màu xanh đen (điện thoạikhông có sim).

Tại Bản kết luận định giá trị tài sản số 635 ngày 25/7/2017 của Hội đồng định giá huyện Châu Thành đã kết luận tài sản bị chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia X màu xanh đen giá trị là 1.440.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, Đinh Quang C đã tác động gia đình giao nộp số tiền1.000.000 đồng cho Cơ quan điều tra để bồi thường cho chị Nguyễn Thị Phương Q.Chị Q đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu gì khác và làmđơn bãi nại cho Đinh Quang C.

Cáo trạng số 67/KSĐT-KT ngày 09/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo Đinh Quang C về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, h, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; Điều33; Điều 60 Bộ Luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đinh Quang C từ 06 tháng đến 09tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

* Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận chị Nguyễn Thị Phương Q đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiểm đoạt và không có yêu cầu gì khác.

* Về xử lý vật chứng: Ghi nhận Cơ quan CSĐT - CA huyện Châu Thành đã trả xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 71C2-227.16 cho ông Đinh Quang T.

Ý kiến của người bị hại: Do đã nhận lại toàn bộ tài sản nên không ý kiến gì khác, xin bãi nại cho bị cáo và đề nghị xử theo pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã rất ân hận về hành vi sai trái của mình.

Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người bị hại về đặc điểm tài sản, vị trí, thời gian để tài sản mà bị cáo chiếm đoạt và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: vào khoảng 19 giờ, ngày 08/7/2017, tại nhà trọ Mỹ Đình thuộc ấp Phước Hòa, xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, bị cáo Đinh Quang C đã có hành vi lén lút lấy trộm của chị Nguyễn Thị Phương Q số tiền2.800.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia X màu xanh đen.

[2] Hành vi của bị cáo C là hành vi cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ.

[3] Tại Bản kết luận định giá trị tài sản số 635 ngày 25/7/2017 của Hội đồng định giá huyện Châu Thành đã kết luận tài sản bị chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Nokia Lumia X màu xanh đen giá trị là 1.440.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Phương Q là 4.240.000 đồng.

[4] Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Đinh Quang C đã phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Luận tội và tranh luận của Kiểm sát viên là có căn cứ nên được chấp nhận.

[5] Bị cáo C biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị xã hội lên án nhưng vì động cơ tư lợi bất chính bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, thiếu cảnh giác trong quản lý tài sản của bị hại để thực hiện hành vi phạm tội, trên thực tế bị cáo đã thực hiện việc chiếm đoạt được tài sản như ý định của bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương nơi bị cáo thực hiện tội phạm, tạo sự bất bình, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mọi người không an tâm trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi.

[6] Xét tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Xét tình tiết giảm nhẹ, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ như: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã bồi thường cho bị hại xong, bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo được quy định tại điểm b, g, h, p khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự; không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà chỉ cần giao bị cáo về chính quyền địa phương phối hợp cùng với gia đình giám sát cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung nên quyết định hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là phù hợp. Do bị cáo hiện tại không có việc làm nên không khấu trừ thu nhập của bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Phương Q đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiểm đoạt và không có yêu cầu gì khác nên ghi nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số71C2-227.16 được xác định là của ông Đinh Quang T; ông T không biết bị cáo Đinh Quang C sử dụng xe mô tô của mình đi trộm cắp tài sản. Cơ quan CSĐT - CA huyện Châu Thành đã trả xe môtô trên cho ông Đinh Quang T xong nên ghi nhận.

[9] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đinh Quang C bị kết án nên phải chịu án phí là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đinh Quang C phạm “Tội trộm cắp tài sản”;

[1] Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, h, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; Điều31 Bộ Luật hình sự năm 1999:

Xử phạt bị cáo Đinh Quang C 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo về cho Uỷ ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

[2] Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận chị Nguyễn Thị Phương Q đã nhận lại toànbộ tài sản bị chiểm đoạt và không có yêu cầu gì khác.

[3] Về xử lý vật chứng: Ghi nhận ông Đinh Quang T đã nhận lại mô tô nhãnhiệu Yamaha Exciter biển số 71C2-227.16 cho xong và không có yêu cầu gì.

[4]  Áp  dụng  Điều  99  Bộ  luật  tố  tụng  hình  sự;  Điều  23  Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sửdụng án phí và lệ phí Tòa án:

Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đinh Quang C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2017/HSST ngày 01/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:62/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về