Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 16/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 62/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 844/2018/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2018/QĐST- HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2018/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1988; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình, vắng mặt (có đơn xin xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Đào Xuân T, sinh năm 1988; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 11 tháng 12 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị M trình bày:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M và anh Đào Xuân T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 23 tháng 10 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Chị M và anh T chung sống hòa thuận hạnh phúc đến khoảng tháng 8 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế, sinh hoạt dẫn tới vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Mâu thuẫn hai vợ chồng cũng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không cải thiện được mà ngày càng căng thẳng hơn. Chị M và anh T đã sống ly thân từ tháng 10/2017 cho đến nay. Trong thời gian ly thân chị M và anh T không còn quan tâm đến nhau, chị M đã về nhà mẹ đẻ ở từ thời gian đó cho tới nay. Chị M nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị M yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị M khai vợ chồng có một con chung là cháu Đào Thanh Bình, sinh ngày 16/6/2012, hiện cháu B đang do chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Trường hợp ly hôn chị đề nghị chị tiếp tục là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị đề nghị anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu B là 2.000.000 đồng/tháng vì cháu B bị bệnh tự kỷ không tự chăm sóc được bản thân.

[3] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị M khai vợ chồng có tài sản chung nhưng để tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được sẽ đề nghị Tòa án giải quyết sau.

[4] Bị đơn là anh Đào Xuân T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác nhưng đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh Đào Xuân T vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

[5] Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Bị đơn là anh Đào Xuân T chưa tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu điều tra có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị M và anh Đào Xuân T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Đào Xuân T; giao con chung cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con chung, buộc anh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung là 650.000 đồng/tháng. Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị M và anh Đào Xuân T là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến giữa năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, sinh hoạt, làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2017 cho đến nay, trong thời gian ly thân hai bên không còn quan tâm đến nhau mặc dù đã được người thân hai bên gia đình hòa giải. Tài liệu xác minh thể hiện anh T biết rõ việc chị Nguyễn Thị M xin ly hôn anh. Toà án đã tống đạt hợp lệ các quyết định tố tụng để anh T có mặt trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị M, nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do và không có văn bản thể hiện ý kiến. Kết quả xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị M và anh T phù hợp với lời khai của chị M. Như vậy thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh T đã trầm trọng, khả năng vợ chồng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên hội đồng xét xử căn cứ Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị M về việc xin ly hôn anh Đào Xuân T.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị M và anh Đào Xuân T có một con chung tên Đào Thanh B, sinh ngày 16/6/2012, hiện cháu B vẫn đang do chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Trong trường hợp ly hôn chị M có nguyện vọng để chị M tiếp tục nuôi dưỡng cháu B. Anh T không đến Tòa án trình bày ý kiến về con chung. Việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh thể hiện từ khi vợ chồng chị M và anh T sống ly thân nhau từ năm 2017 đến nay chị M vẫn trực tiếp nuôi con, việc nuôi con của chị M vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt và đã ổn định. Vì vậy cần giao cho chị M trực tiếp nuôi con là phù hợp với Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung: Chị Nguyễn Thị M đề nghị anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Đào Thanh B số tiền là 2.000.000 đồng/tháng. Xét thấy cháu B bị hạn chế khả năng nhận thức, là đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng, việc chăm sóc và nuôi dưỡng cháu B cần nhiều thời gian và công sức hơn so với chăm sóc những đứa trẻ bình thường khác. Do đó cần chấp nhận mức đề nghị của nguyên đơn, buộc anh Đào Xuân T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu Đào Thanh B số tiền 2.000.000 đồng/tháng là phù hợp.

[3] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị M khai vợ chồng có tài sản chung, nhưng để tự thỏa thuận giải quyết với anh T, nếu không tự thỏa thuận được sẽ khởi kiện ra Tòa án sau. Anh Đào Xuân T chưa có lời khai về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí theo quy định của phápluật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M được ly hôn anh Đào Xuân T. [2] Về con chung: Giao con chung Đào Thanh B, sinh ngày 16 tháng 06 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đào Thanh B đủ 18 tuổi, có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đào Xuân T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Đào Thanh B, sinh ngày 16 tháng 06 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị M với số tiền là 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu Đào Thanh B đủ 18 tuổi, có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và chị Nguyễn Thị M có đơn đề nghị thi hành án khoản tiền cấp dưỡng nuôi con chung mà anh Đào Xuân T chưa thi hành xong khoản tiền phải thi hành thì anh Đào Xuân T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả.

[3] Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí chị M đã nộp theo biên lai số 0008604 ngày 27/12/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị M đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Đào Xuân T phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng định kỳ.

[5] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 16/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về