Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 17/08/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 62/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 17 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 641/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2017 về “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 555/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

Bà Đ, sinh năm 1980 (Có mặt).

Địa chỉ: ấp H, xã A, huyện P, tỉnh H.

- Bị đơn:

Ông P, sinh năm 1976 (Vắng mặt).

Địa chỉ: đường C, phường A, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà và ông P tiến tới hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, được cấp theo giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số I/2006 ngày 08/3/2006.

Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu do bất đồng quan điểm, dẫn đến thường xuyên tranh cãi. Cụ thể là khoảng 9 năm sau khi kết hôn thì ông P thường xuyên nhậu say về có lời lẽ xúc phạm và đuổi bà ra khỏi nhà. Đồng thời, nhiều lần ông P gọi điện thoại hăm dọa rạch mặt, tạt axit bà, do đó bà và ông P đã sống ly thân hơn 03 năm nay. Mặc dù được gia đình hai bên nhiều lần động viên, hàn gắn nhằm cải thiện tình cảm vợ chồng nhưng không đạt hiệu quả. Đến nay vợ chồng ông bà không còn tình cảm và tin tưởng nhau nữa, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân nhận không đạt được.

Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu:

+ Về quan hệ hôn nhân: Được ly hôn với ông P;

+ Về con chung: ông bà có 02 con chung là cháu là P1 (nam), sinh ngày: 12/02/2002 và cháu T (nữ), sinh ngày: 15/11/2003. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung, không yêu cầu ông P cấp dưỡng.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Được Tòa án triệu hợp lệ 02 lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Do đó, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa,

Nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về sự có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Bị đơn vắng mặt các lần hòa giải, xét xử nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy mâu thuẫn giữa bà Đ với ông P đã nghiêm trọng kéo dài nhiều năm, đời sống hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Đ và ông P tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ nên xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống bà Đ và ông P phát sinh mâu thuẫn, bà Đ có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn”, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn – Ông P đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa 02 lần nhưng đương sự đều vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án (vắng mặt bị đơn) theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Qua mai mối, tìm hiểu khoảng 03 tháng thì bà Đ và ông P tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn năm 2006, sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Tại phiên tòa hôm nay ông P vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nên được xem là từ bỏ quyền tranh tụng của mình. Hội đồng xét xử sẽ giải quyết vụ án dựa trên trình bày của bà Đ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo bà Đ, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, đời sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên gây cải nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà Đ xác nhận bà và ông P chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng mặc dù bà đã nhiều lần cho ông P cơ hội để vợ chồng hàn gắn nhưng không cải thiện. Do đó, bà và ông P đã ly thân với nhau hơn 03 năm nay.

Mặt khác, ông P đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa ông P và bà Đ đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Có hai cháu là P1 (nam), sinh ngày: 12/02/2002 và cháu T (nữ), sinh ngày: 15/11/2003.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Xét cháu P1 và T được bà Đ nuôi dưỡng từ khi sinh ra, đồng thời ông P đã được Tòa án triệu tập nhưng không đến phiên tòa cũng như không có văn bản nêu rõ ý kiến của mình trước yêu cầu của bà Đ. Hiện tại, 02 cháu đang sinh sống với bà Đ, đồng thời tại Biên bản ghi ý kiến ngày 05/9/2017 thì các cháu P1 và T đều có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu thì việc giao cháu P1, cháu T cho bà Đ nuôi dưỡng là phù hợp.

Do bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu nên dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông P theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về cấp dưỡng: Do bà Đ không yêu cầu ông P cấp dưỡng cho 02 con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Đ khai là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

[7] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn bà Đ phải chịu theo quy định của pháp luật.

 Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2017/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đ về việc ly hôn với ông P.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đ được ly hôn với ông P.

2. Về con chung: Có 02 con chung là cháu P1 (nam), sinh ngày: 12/02/2002 và cháu T (nữ), sinh ngày: 15/11/2003. Hai cháu sẽ do bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Ông P không phải cấp dưỡng.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông P theo quy định của pháp luật, không ai được quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này có ai tranh chấp sẽ tách ra giải quyết thành vụ kiện khác.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Đ chịu 300.000 đồng. Chuyển tiền tạm ứng án phí bà Đ đã nộp, theo biên lai thu số 004135 ngày 24/7/2017 thành án phí hôn nhân sơ thẩm phải chịu.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 17/08/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:62/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về