Bản án 62/2018/HS-ST ngày 05/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 62/2018/HS-ST NGÀY 05/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2018/HSST-QĐ ngày 21 tháng 5 năm 2018 đối với:

- Bị cáo Nguyễn Thị Hồng T, sinh ngày 14 tháng 8 năm 1975 tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An; Cư trú: Số A, đường P, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Bi (chết) và bà Lê Thị Hai, sinh năm 1936; Bị cáo có chồng Lý H, sinh năm 1976, có 03 con lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: từ nhỏ đến lớn sống chung với cha mẹ, đi học đến lớp 8 nghỉ học.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/11/2017. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Lý H, sinh năm 1976. (Có mặt)

Cư trú: Số 26B, 27B, 28B, đường Phan Văn Khỏe, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 02/11/2017, trên Quốc lộ 91, đoạn thuộc khóm Đông Thạnh B, phường Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, công an thành phố Long Xuyên kiểm tra hành chính xe ô tô loại 7 chỗ, biển số 51F- 962.86 do anh Phan Cảnh Hoàng Ân điều khiển chở vợ chồng Lý H và Nguyễn Thị Hồng T. Qua kiểm tra phát hiện trong túi vải có chữ Sony của T có 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng và công cụ sử dụng ma túy đá. T khai tinh thể rắn màu trắng là ma túy đá, T mang theo để bán nên Công an thành phố Long Xuyên bắt giữ T giao cho Công an phường Mỹ Thạnh lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, T khai: Khoảng 17 giờ ngày 01/11/2017, T gặp Tuấn không rõ họ và địa chỉ tại quán cà phê Cát Đằng trên đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, Tuấn thuê T đem gói ma túy đá trên đến quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ giao cho Quý không rõ họ, địa chỉ và nhận 25.000.000 đồng. Tuấn trả công cho T 5.000.000 đồng thì T đồng ý. Khoảng 19 giờ ngày 01/11/2017, T đem gói ma túy đá về nhà để vào túi vải và rủ chồng là Lý H đi thành phố Cần Thơ nhưng không cho Hoàng biết việc T đi giao ma túy thuê. Sau đó, T thuê xe ô tô biển số 51F-962.86 của anh Phan Cảnh Hoàng Ân chở T, Hoàng từ thành phố Hồ Chí Minh đi thành phố Cần Thơ để giao ma túy cho Quý. Khoảng 22 giờ ngày 01/11/2017 thì đến thành phố Cần Thơ nhưng Quý điện thoại hẹn T ngày 02/11/2017 mang gói ma túy đá đến thành phố Long Xuyên giao cho Quý và nhận tiền nên T, Hoàng đến khách sạn Đô Na thuê phòng nghỉ, còn anh Ân nghỉ nơi khác. Khoảng 07 giờ ngày 02/11/2017, T gọi điện thoại cho anh Ân đến khách sạn chở T, Hoàng đi thành phố Long Xuyên theo yêu cầu của Quý. Khi đến phường Mỹ Thạnh thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ.

Kết luận giám định số 517/KLGT-PC54 ngày 10/11/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang, xác định:

Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon trong suốt màu trắng viền màu đỏ được niêm phong có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Hồng T, Lý H, Phan Cảnh Hoàng Ân, Nguyễn Văn Thắng, Trần Thanh Hồng gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 49,9779 gam, loại Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 22/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hồng T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm m khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (theo Điều 251 Bộ luật hình sự 2015).

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị áp dụng:

Về trách nhiệm hình sự: áp dụng điểm m khoản 2, khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng T từ 07 (bảy) năm đến 09 (chín) năm tù. Về hình phạt bổ sung: đề nghị phạt từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

1. 01 (một) hộp niêm phong ghi vụ số: 517/KLGT-PC54 ngày 10/11/2017 bên ngoài in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Kiều Thúy, Huỳnh Trung Tín;

2. 01 (một) túi vải màu đen sọc xanh, đỏ có chữ SONY màu trắng;

3. 05 (năm) đoạn ống thủy tinh, mỗi đoạn có đầu gù tròn;

4. 05 (năm) đoạn ống hút nhựa màu trắng;

Tịch thu phát mãi nộp ngân sách Nhà nước:

1. 01 (một) điện thoại màu đen hiệu Nokia, 01 sim số 0898.014128 đã qua sử dụng. Model TA.1034, IMEI 1 357337082587994; IMEI 2 357337082587992;

2. 01 (một) điện thoại màu đen, vàng hiệu Ip-67 Certified, sim số 0919863828 đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong;

3. 01 (một) điện thoại màu trắng xám hiệu Nokia, không gắn sim đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong (không mở máy ra được)

Trả lại cho bị cáo :

1/ 01 (một) máy tính bản màu trắng, ốp lưng màu đen đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong;

2/ Số tiền 39.060.000 đồng (ba mươi chín triệu, không trăm sáu mươi ngàn đồng)

Bị cáo Nguyễn Thị Hồng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về trách nhiệm hình sự:

Lời khai nhận của bị cáo trong quá trình điều tra phù hợp với lời khai nhận tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và tang vật thu giữ, kết luận giám định và những chứng cứ khác đã được thu thập được trong quá trình điều tra. Đủ căn cứ xác định khoảng 10 giờ ngày 02/11/2017 cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Long Xuyên phát hiện trong túi vải của Nguyễn Thị Hồng T có 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng, quá trình điều tra bị cáo T thừa nhận vận chuyển thuê cho người tên Tuấn không rõ họ và địa chỉ mà bị cáo gặp tại quán cà phê Cát Đằng trên đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 13, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh nhằm mục đích để bán. Tuấn thuê T đem gói ma túy đá từ thành phố Hồ Chí Minh đến quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ bán cho Quý không rõ họ, địa chỉ và nhận 25.000.000 đồng, Tuấn trả công cho T 5.000.000 đồng. Khi đến Cần Thơ thì Quý yêu cầu T đến thành phố Long Xuyên để giao, khi chưa giao cho Quý thì bị bắt giữ. Hành vi của bị cáo đã đủ yêu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật hình sự. Căn cứ kết luận giám định xác định ma túy thu giữ là Methamphetamine có trọng lượng 49,9779 gam, đây là tình tiết định khung theo điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 02/11/2017, trước ngày Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực, căn cứ điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 và điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015. Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội với nguyên tắc áp dụng có lợi cho bị cáo Hội đồng xét xử áp dụng điểm m khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 đối với bị cáo.

Đối với Tuấn là người thuê T bán ma túy, Quý là người mua ma túy do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Long Xuyên tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.

[2] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự, làm gia tăng số người nghiện, đem đến nỗi bất hạnh cho những gia đình có người nghiện ngập, làm tiêu tán tài sản và mất nguồn lực lao động dẫn đến suy sụp kinh tế gia đình và đất nước. Đồng thời cũng là nguyên nhân làm phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự khác.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã thành khẩn khai báo, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã khai đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội đã thực hiện; đã ăn năn hối cải sau khi thực hiện tội phạm, bị cáo thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm về tội lỗi của mình gây ra chỉ vì tham lam số tiền công 5.000.000 đồng mà vận chuyển thuê cho người tên Tuấn, bị cáo không dám tái phạm, muốn sửa chữa, cải tạo thành người tốt sống có ích cho gia đình và xã hội. Đây là hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Đồng thời, bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo và mức án áp dụng đối với bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng: Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[5] Về án phí sơ thẩm:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : bị cáo Nguyễn Thị Hồng T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

 Căn cứ vào:

- Điểm m khoản 2, khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự 2015;

- Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

- Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 06 năm 2017 của Quốc hội.

 Tuyên xử:

[1] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Hồng T 06 (sáu) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày: 02/11/2017.

Về hình phạt bổ sung: Buộc bị cáo nộp số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng)

[2] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

1. 01 (một) hộp niêm phong ghi vụ số: 517/KLGT-PC54 ngày 10/11/2017 bên ngoài in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Kiều Thúy, Huỳnh Trung Tín;

2. 01 (một) túi vải màu đen sọc xanh, đỏ có chữ SONY màu trắng;

3. 05 (năm) đoạn ống thủy tinh, mỗi đoạn có đầu gù tròn;

4. 05 (năm) đoạn ống hút nhựa màu trắng;

Tịch thu phát mãi nộp ngân sách Nhà nước:

1. 01 (một) điện thoại màu đen hiệu Nokia, 01 sim số 0898.014128 đã qua sử dụng. Model TA.1034, IMEI 1 357337082587994; IMEI 2 357337082587992;

2. 01 (một) điện thoại màu đen, vàng hiệu Ip-67 Certified, sim số 0919863828 đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong;

3. 01 (một) điện thoại màu trắng xám hiệu Nokia, không gắn sim đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong (không mở máy ra được)

Trả lại cho bị cáo :

1/ 01 (một) máy tính bản màu trắng, ốp lưng màu đen đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong;

2/ Số tiền 39.060.000 đồng (ba mươi chín triệu, không trăm sáu mươi ngàn đồng)

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 3 năm 2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Long Xuyên và Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Long Xuyên; giấy nộp tiền vào tài khoản số 29 ngày 24/11/2017 của Phòng giao dịch kho bạc nhà nước tỉnh An Giang)

[3] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; Người liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2018/HS-ST ngày 05/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về