Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 176/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ D - Sinh năm: 1997, địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre (có mặt).

- Bị đơn: Anh Lương Hoài H - Sinh năm: 1986; địa chỉ: Ấp D, xã E, huyện C, tỉnh Bến Tre (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06 tháng 5 năm 2019, bản tự khai ngày 27 tháng 5 năm 2019, biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai, chứng cứ và biên bản hòa giải cùng ngày 27 tháng 5 năm 2019 và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Mỹ D trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Lương Hoài Hận tìm hiểu nhau rồi tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán vào tháng 11 âm lịch năm 2015. Chị và anh H có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã E, huyện C, tỉnh Bến Tre vào ngày 06 tháng 7 năm 2016, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, chị và anh H chung sống chung nhà với mẹ ruột của anh H tại ấp D, xã E, huyện C, tỉnh Bến Tre. Trong thời gian chung sống thì chị và anh H cũng có cự cãi vì anh H hay ghen nhưng anh chị vẫn tiếp tục chung sống với nhau đến cuối năm 2018. Tháng 01 âm lịch năm 2019 thì chị về bên cha mẹ ruột của chị tại ấp A, xã B, huyện c, tỉnh Bến Tre sinh sống cho đến nay. Lý do chị về bên nhà cha mẹ ruột của chị để sinh sống là do giữa chị và anh H lại tiếp tục cự cãi mà nguyên nhân là do anh H lại tiếp tục ghen tuông, nhưng bản thân chị không làm gì sai trái, sự việc như vậy đã lập đi lập lại rất nhiều lần nên chị không thể tiếp tục chung sống với anh H được nữa. Chị và anh H sống ly thân từ tháng 01 âm lịch năm 2019 cho đến nay mà không thể đoàn tụ được nên chị yêu cầu ly hôn với anh H, không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Về con chung: Chị và anh H chưa có con chung.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị D trình bày là không có.

Tại bản tự khai ngày 27 tháng 5 năm 2019, biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai, chứng cứ và biên bản hòa giải cùng ngày 27 tháng 5 năm 2019, bị đơn là anh Lương Hoài H trình bày:

Về hôn nhân: Anh đồng ý với lời trình bày của chị D về việc anh chị có tìm hiểu nhau trước khi tổ chức lễ cưới, về thời gian đăng ký kết hôn, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, cũng như về thời gian sống ly thân. Anh H cho rằng anh còn thương chị D nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị D chưa có con chung.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh H trình bày là không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Mỹ D giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đã nêu trên và trình bày bổ sung về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do chị và anh H không có con chung. Anh Lương Hoài H vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

NHN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị Mỹ D có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc: “Ly hôn ” với anh Lương Hoài H có địa chỉ tại: ấp D, xã E, huyện C, tỉnh Bến Tre nên Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre thụ lý, giải quyết là phù hợp với quy định tại các điều 28, 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Anh Lương Hoài H đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 177 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai nên Tòa án xét xử vắng mặt anh H là phù hợp với quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về hôn nhân:

[3.1] Việc kết hôn giữa chị Nguyễn Thị Mỹ D và anh Lương Hoài H tại ủy ban nhân dân xã E, huyện C, tỉnh Bến Tre vào ngày 06/7/2016 là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận.

[3.2] Chị D cho rằng cuộc hôn nhân đã không còn hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn với anh H nhưng anh H không đồng ý ly hôn. Chị D và anh H sống ly thân từ tháng 01 âm lịch năm 2019 cho đến nay mà không thể đoàn tụ được, trong khoảng thời gian vừa qua giữa anh chị không có sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau mà mạnh ai nấy sống. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, chị D đều kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh H. Từ đó cho thấy quan hệ hôn nhân giữa chị D với anh H đã đến mức trầm trọng, không thể đoàn tụ để tiếp tục cuộc sống chung của vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị D về việc ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, về con chung, về tài sản chung, về nợ chung: Chị D và anh H chưa có con chung. Chị D, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, về tài sản chung, về nợ chung; đồng thời Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre cũng không nhận được đơn yêu cầu giải quyết về nợ có liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị D là người khởi kiện yêu cầu ly hôn nên chị phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các điều 5, 147, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ D, cụ thể:

1/ Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ D được ly hôn với anh Lương Hoài H.

2/ Về việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, về con chung, về tài sản chung, về nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết do không có yêu cầu.

3/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Mỹ D phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là: 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0002476 ngày 06 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre, chị Nguyễn Thị Mỹ D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4/ Về quyền kháng cáo, kháng nghị đối với bản án: Chị Nguyễn Thị Mỹ D có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, riêng anh Lương Hoài H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre nhận được bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm./.<

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về