Bản án 62/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 62/2019/HSST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2019/HSST ngày 21 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2019/HSST-QĐ ngày 19 tháng 6 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 95/2019/HSST-QĐ ngày 02/7/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn C (tên gọi khác: Không), sinh ngày 06/8/1990. Nơi sinh: Sông Mã - Sơn La.

Nơi ở và ĐKHKTT: Bản PC, xã MH, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Đảng phái: Không. Con ông: Lò Văn P; con bà Cà Thị H, có vợ là Lành Thị A và có 02 con (con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2013).

Tiền án: Không, tiền sự: Ngày 02/7/2018 bị Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú từ ngày 06/3/2019 cho đến này có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1991, trú tại bản NT, xã CK, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn Hải – Thuộc văn phòng luật sư Đỗ Thuận – Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo ông Lò Văn P, sinh năm 1957 (bố đẻ bị cáo), trú tại bản PC, xã MH, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 23/9/2018 Lò Văn C đi bộ từ nhà xuống xã MS thăm người thân nhưng không gặp nên C đi bộ về nhà. Đến khoảng 02 giờ sáng ngày 24/9/2018 khi đến khu vực bản NT, xã CK, huyện Sông Mã lúc này C vừa đói vừa mệt khi nhìn thấy quán bán hàng tạp hóa của ông Đỗ Xuân T có điện sáng C đi quanh chó sửa nên ông T dậy thì C hỏi mua ổi và được ông T cho 03 quả ổi để ăn và bảo C đi về. C đi bộ về một đoạn thấy ở hiên nhà anh Nguyễn Anh T (nhà gần đường) dựng một chiếc xe mô tô hiệu Honda kiểu Wave Alpha BKS 26C1 – 120.53 trong nhà mọi người đã đi ngủ, C lại gần thì chiếc xe vẫn còn cắm chìa khóa ở ổ nên C nẩy ý định lén lút chiếm đoạt chiếc xe. C đẩy xe ra ngoài đường và nổ máy đi thẳng về nhà. Sáng dậy anh T phát hiện mất xe đã trình báo Công an xã, Đến 11 giờ ngày 24/9/2018 Tổ công tác Công an xã CK và công an xã MH đến nhà C thì phát hiện C đang đi chiếc xe mô tô lấy trộm của anh Tuấn đi đánh cá, khi nhìn thấy tổ công tác C đã bỏ lại xe bỏ trốn. Tổ công tác đã tạm giữ xe, sau đó C đến Công an xã MH khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 306/KL ngày 02 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Sông Mã kết luận: “01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, biển kiểm soát 26C1-120.53, số máy 5718123, số khung 718081, đã qua sử dụng giá trị: 8.500.000 đồng”.

Quá trình điều tra, xác minh xác định khoảng năm 2013 – 2014 Lò Văn C sử dụng ma túy, sau đó có biểu hiện rối loạn tâm thần. Sau khi cai nghiện năm 2017 – 2018 C đã được điều trị tại Bệnh viện Tâm thân tỉnh Sơn La.

Ngày 12/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã trưng cầu giám định Viện pháp y tâm thần Trung ương theo kết luận số 05/KLGĐ ngày 03/01/2019 của Viện pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ y tế kết luật: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định Lò Văn C có biểu hiện rối loạn loạn thần di chứng và khởi phát muộn do sử dụng nhiều loại ma túy. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F 19.75. Tại thời điểm trên bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại công văn số 277/VPYTTTƯ ngày 21/3/2019 của Viện pháp y tâm thần Trung ương thì theo Điều 5 Nghị Định số 64/NĐCP ngày 28/7/2011 của Chính phủ quy định về việc thi hành Biện pháp bắt buộc chữa bệnh và Điều 49 quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Bộ luật hình sự năm 2015: Bị can không thuộc diện áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 26C1 -0120.53 đăng ký mang tên chính chủ Nguyễn Anh T, trú tại bản NT, xã CK, huyện Sông Mã. Ngày 31/10/2018 CQĐT Công an huyện Sông Mã đã trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp.

Về dân sự: Bị hại Nguyễn Anh T đã nhận được tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 52/CT-VKSSM ngày 19 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố bị cáo Lò Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Lò Văn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lò Văn C phạm tội Trộm cắp tài sản, áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn C từ 09 – 15 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Anh T không yêu cầu bồi thường gì thêm đề nghị HĐXX không xem xét.

- Bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo nên được miễn án phí theo quy định.

Tại phần tranh luận: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Tại phần tranh luận: Luật sư bào chữa cho bị cáo: Thủ tục điều tra, truy tố, xét xử đối với bị cáo đúng với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đồng ý với bản luận tội của Viện kiểm sát, nhưng đề nghị HĐXX căn cứ vào nhân thân bị cáo chưa có tiền án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội trước khi bị rối loạn tâm thần, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội ra đầu thú, do đó bị cáo được hưởng các tính tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i, p khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt mức án thấp nhất của mức đại diện Việt kiểm sát đề nghị và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tung: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ như sau:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng viện kiểm sát truy tố, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với đơn trình báo của bị hại, lời khai người bị hại, những người liên quan, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; kết luận định giá tài sản số: 306/KL ngày 02/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản của UBND huyện Sông Mã cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn C đã thành niên có đủ sức khỏe làm việc tạo thu nhập cho bản thân nhưng do chơi bời và lười lao động lợi dụng sơ hở của bị hại, ngày 24/9/2018 bị cáo đã có hành vi lén lút vào nhà anh Nguyễn Anh T lấy trộm xe mô tô nhãn hiện Honda Wave Alpha BKS 26C1-120.53 trị giá 8.500.000 đồng thì bị phát hiện. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Lò Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của các bị hại được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội tại địa phương làm cho nhân dân hoang mang, lo sợ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, khả năng nhận thức biết được việc lén lút lấy trộm tài sản của người khác đang trực tiếp quản lý là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính tham lam, lười lao động muốn hưởng lợi trên thành quả của người khác nên bị cáo cố thực hiện chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng theo gia đình và chính quyền địa phương cho biết bị cáo là đối tượng không có việc làm ổn định thường xuyên đi lang thang thấy tài sản của người khác sơ hở lén lút trộm cắp đem bán lấy tiền tiêu sài cá nhân làm mất trật tự trị an tại địa phương, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cai nghiện và từ bỏ ma túy đồng thời để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu nghiện chất ma túy từ năm 2014, có 01 tiền sự ngày 02/7/2018 bị Công an huyện Sông Mã xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, nay lại phạm tội mới. Do sử dụng nhiều loại ma túy hiện nay bị cáo có biểu hiện rối loạn tâm thần, theo kết luận pháp ý của Viện pháp ý tâm thần Trung ương thuộc Bộ y tế: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định Lò Văn C có biểu hiện rối loạn loạn thần di chứng và khởi phát muộn do sử dụng nhiều loại ma túy và tại thời điểm trên bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Như vậy bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Theo biên bản xác minh và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, không có tài sản riêng có giá trị và gia đình hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên HĐXX không xem xét.

[7] Về các vấn đề khác liên quan: Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave Alpha BKS 26C1-120.53 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Anh Tuấn, ngày 31/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã trao trả cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo tại phiên tòa bị cáo và người bào chữa, đại diện cho bị cáo đề nghị HĐXX miễn án phí cho bị cáo theo quy định nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn C, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

2. Xử phạt: Bị cáo Lò Văn C 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày nhập trại.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tiếp tục cấm bị cáo Lò Văn C đi khỏi nơi cư trú đến khi nhận được bản án và quyết định thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14. Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn C.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa, người đại diện cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:62/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về