Bản án 626/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 626/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 2 6 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 434/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp l y h ô n theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 548/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 493/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ái N, sinh năm: 1989 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 3, xã L, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Đỗ Triệu V, sinh năm: 1985 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 3, xã L, xã Long Thới, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06/8/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Bà Lê Thị Ái N và ông Đỗ Triệu V tự nguyện sống chung như vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 53, quyển số 01/2010 ngày 22/7/2010.

Quá trình chung sống, bà N và ông V thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông V từ năm 2011 đến nay không lo làm ăn, thường xuyên tụ tập bạn bè nhậu nhẹt. Tuy bà Như đã nhiều lần khuyên bảo nhưng ông V vẫn không thay đổi, dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn càng trở nên trầm trọng không thể hàn gắn đươc. Bà N nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, không thể nào hàn gắn, nay bà N yêu cầu Toà án giải quyết được ly hôn với ông V.

Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Đỗ Thiên T, sinh ngày 01/6/2010, hiện do bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn bà Như yêu cầu tiếp tục nuôi con và không yêu cầu ông V cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N xác định không có.

Toà án triệu tập bị đơn ông Đỗ Triệu V tham gia phiên Toà vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 05 tháng 11 năm 2018, ông V vắng mặt. Tại phiên toà ngày hôm nay, ông V đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Phát biểu của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè:

Toà án nhân dân huyện Nhà Bè thì từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và tuân thủ nội quy phiên tòa. Bị đơn vắng mặt không lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và yêu cầu xin được nuôi con của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét đơn khởi kiện của bà Lê Thị Ái N yêu cầu ly hôn với ông Đỗ Triệu V là quan hệ tranh chấp “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo qui định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Đỗ Triệu V hiện đang cư trú tại Ấp 3, xã L, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè theo điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn ông Đỗ Triệu V đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà đến lền thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không có lý do, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông V.

[3] Nguyên đơn bà Lê Thị Ái N yêu cầu ly hôn với ông V do ông V không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên chửi bới, xúc phạm bà N, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không thể giải quyết được. Bị đơn ông Đỗ Triệu V được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án, từ bỏ quyền lợi của minh, không tham gia hoà giải, chứng tỏ ông V không còn thiết tha hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét mâu thuẫn vợ chồng giưa bà N và ông V là có thật, nay bà N yêu cầu xin ly hôn với ông V là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 01 (một) con chung tên Đỗ Thiên T, sinh ngày 01/6/2010, hiện bà N đang trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T. Trẻ T đang sinh sống ổn định cùng bà N, qua xem xét nguyện vọng của con cho thấy yêu cầu xin nuôi con của bà Như là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà N khai không có nên không có gì giải quyết.

[5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà N chịu án phí 300.000 đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, 39, 227, 228, 266, 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 55, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Ái N:

- Về quan hệ vợ chồng: Bà Lê Thị Ái N được ly hôn với ông Đỗ Triệu V.

- Về con chung: Giao con chung Đỗ Thiên T cho bà Lê Thị Ái N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không yêu cầu nên Toà án không giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, nếu có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có gì giải quyết.

2. Về án phí: 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), bà Lê Thị Ái N có nghĩa vụ phải nộp được cấn trừ vào biên lai số 0033255 ngày 23/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhà Bè. Bà N đã nộp đủ án phí.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bà Lê Thị Ái N và kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ đối với ông Đỗ Triệu V.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 626/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:626/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về