Bản án 63/2017/HSST ngày 20/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MỸ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 63/2017/HSST NGÀY 20/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20/12/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Mỹ xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2017/HSST ngày 13/11/2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65A/2017/QĐXX ngày 28/11/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H. Sinh năm 1987; Sinh, trú quán: thôn T, xã Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên bố: Nguyễn Văn N - Sinh năm: 1952; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị T. Sinh năm 1958;Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; Vợ, con: Chưa có. Tiền án: Ngày 22/7/2014, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên xử phạt 03 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng. Chấp hành xong bản án ngày 30/9/2016.

Nhân thân: Ngày 15/8/2008, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt 28 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong bản án ngày 24/8/2010.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên, có mặt tại phiên toà.

* Những người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Đỗ Thị T – sinh năm 1987. HKTT: Khu 4, xã X, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Chỗ ở: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Hưng Yên.

+ Anh Phan Văn T (tức C) – sinh năm 1974. HKTT: Thôn Đ, xã N, huyện V, tỉnh Hưng Yên.

Trú tại: Trại tạm giam công an tỉnh Hưng Yên.

+ Anh Lê Xuân M1 – sinh năm 1995.

+ Anh Lê Xuân M2 – sinh năm 1973.

Đều trú tại: Thôn 6, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 06/6/2017, tại phòng 305 nhà nghỉ Huy Hoàng II của anh Nguyễn Đình H ở thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, Công an huyện Yên Mỹ phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn H và Lê Xuân M1 đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: trên tay phải của anh M1: 01 chai nhựa màu trắng, cao 18cm, đường kính 4cm có nắp màu xanh gắn 01 ống hút màu vàng cam dài 40cm đường kính 0,5cm và 01 ống hút nhựa màu xanh dài 20cm đường kính 0,5cm, đầu phía trên nắp chai nhựa của ống hút có gắn ống thủy tinh được cuốn bằng băng dính đen, ống thủy tinh dài 03cm có hình cầu đường kính 1,5cm, trong hình cầu này còn dính chất tinh thể màu trắng, niêm phong tại chỗ ký hiệu M1, giám định kết luận có trọng lượng 0,047 gam, có Methamphetamine, hàm lượng Methamphetamine 71,2% sau giám định mẫu đã phân tích hết; tại túi quần bên trái phía trước của Minh 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1 màu đen đã cũ bên trong có sim thuê bao số 01668351189; túi quần phía sau bên phải H số tiền 550.000 đồng; thu của anh M1: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen không biển số. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mỹ khám xét khẩn cấp phòng 305 nhà nghỉ Huy Hoàng II phát hiện thu giữ:

- Trên đệm góc cuối giường bên trái 01 túi giả da màu nâu, tại ngăn ngoài có 01 vỏ bao thuốc lá Marlboro màu trắng bên trong có 01 túi nilon màu trắng bên trong có 12 túi nilon nhỏ màu trắng, gồm 10 túi viền màu đỏ và 02 túi viền màu xanh, bên trong mỗi túi đều chứa tinh thể màu trắng. Kết luân giám định có tổng trọng lượng: 1,401g có Methamphetamine hàm lượng 72,6 %; sau giám định hoàn lại 1,017 g; 01 bao diêm nhãn hiệu thống bên trong có 4 túi nilon màu trắng miệng túi có viền đỏ đều chứa chất tinh thể màu trắng, có trọng lượng 0,460g có Methamphetamine, hàm lượng 72%. Niêm phong hai loại trên khi thu giữ M2. Sau giám định hoàn lại 0,229g

- Tại hộp gạt tàn thuốc lá trên bàn uống nước 02 túi nilon màu trắng, miệng viền đỏ, hai bên túi đều bị cắt, trong túi bám dính chất tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu M3 giám định kết luận không có chất ma túy sau giám định hoàn lại 02 vỏ túi nilon viền đỏ.

Toàn bộ đối tượng giám định được hoàn lại trong niêm phong số 498/C54(TT2)

- Trong vỏ gối để đầu giường 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Văn H và số tiền 1.920.000 đồng;

- Tại đệm cuối giường bên phải 03 bật lửa ga gồm 02 chiếc màu trắng và 01 chiếc màu đỏ, đầu ga của chiếc bật lửa màu đỏ có gắn một đoạn ống kim loại nhỏ dài 10cm, đường kính 2mm.

- Tại giường 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4 màu trắng đã cũ có sim số 01636674448 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ có sim số 0975609221, là điện thoại của H, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 màu trắng đã cũ có sim số 0984103695, là điện thoại của M1.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn H khai mua số ma túy trên của Đỗ Thị T, sinh năm 1987 ở thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Hưng Yên, Đỗ Thị T. T không thừa nhận bán cho H. Đỗ Thị T chỉ thừa nhận số ma túy đã bị thu giữ trong túi xách tại nhà trọ là của T để sử dụng, còn không thừa nhận đã bán ma túy cho H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mỹ tách ra để giải quyết ở một vụ việc riêng.

Ngày 16/8/2017, ông Lê Xuân M2 giao nộp 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 002545 và 01 chiếc biển số xe 36B2- 845.08.

Đối với Nguyễn Đình H không biết việc H tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà nghỉ của mình nên không xử lý.

Cáo trạng số 57/QĐ - VKS ngày 14 tháng 9 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mỹ truy tố bị cáo Nguyễn Văn H: tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa bị cáo H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố là đúng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát huyện Yên Mỹ đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 (tái phạm) Bộ luật hình sự năm 1999, Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 01 năm 9 tháng đến 2 năm tù.

Ngoài ra Đại diện VKSND huyện Yên Mỹ còn có quan điểm về hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Yên Mỹ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mỹ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố về đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Lê Xuân M1, người làm chứng là chị Lê Huyền T, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 14 giờ ngày 06/6/2017, tại phòng 305 nhà nghỉ Huy Hoàng II ở thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, Nguyễn Văn H đang có hành vi tàng trữ 1,908 gam tinh thể màu trắng có hàm lượng Methamphetamine bình quân 71.93% để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Do đó VKSND huyện Yên Mỹ truy tố bị cáo H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ. So với Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 249 Bộ luật hình sự có khung hình phạt nhẹ hơn, do đó cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự và Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội như quan điểm của Đại diện VKSND huyện Yên Mỹ là phù hợp với pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý được luật hình sự bảo vệ. bị cáo không những có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng bị cáo còn cho đối tượng nghiện khác sử dụng chất ma túy gây mất trật tự trị an, gây bất bình trong dư luận.

Về tình tiết tăng nặng: bản thân bị cáo H đã bị kết án chưa được xóa án tích nay bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự

Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn N có thành tích trong kháng chiến được tặng thưởng bằng khen của Bộ Quốc phòng và huân chương chiến sỹ vẻ vang nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Sau khi cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, biết tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, tôn trọng pháp luật, đồng thời cũng có tác dụng răn đe giáo dục phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Đối với chất ma túy còn lại sau giám định, cùng toàn bộ đối tượng giám định được hoàn lại trong niêm phong số 498/C54(TT2) là vật nhà nước cấm lưu hành và 01 chai nhựa màu trắng, 01 ống hút màu vàng, 03 bật nửa ga, 01 túi giả da màu nâu có quai dây xách bằng vải màu nâu nhãn hiệu Lahada không có giá trị cần cho tiêu hủy.

Đối với 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Văn H; 01 ví giả da màu đen, số tiền 2.470.000 đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4 màu trắng có sim thuê bao số 01656674448 thuộc quyền sở hữu của bị cáo H không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả bị cáo.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 có sim số 0984103695 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1 màu đen đã cũ sim số 01668351189, thuộc quyền sở hữu của anh Lê Xuân M1 không liên quan đến tội phạm cần trả anh M1.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động Noika 105 màu đen có sim thuê bao số 0975609221, bị cáo H sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu cho phát mại sung công quỹ nhà nước, riêng sim cho tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen không đeo biển số, 01 chiếc biển số xe 36B2 – 84508 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô do Công an huyện Cẩm Thủy – Thanh Hóa cấp cho xe BS 36B2 – 845.08, chủ xe là ông Lê Xuân M2, thuộc quyền sở hữu của ông Lê Xuân M2, không liên quan đến tội phạm cần trả ông Lê Xuân M2.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Áp dụng điểm khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46; điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999; nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 (năm) tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 06/6/2017.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Khoản 1 và điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định cùng toàn bộ đối tượng giám định được hoàn lại trong niêm phong số 498/C54(TT2), 01 chai nhựa màu trắng, 01 túi giả da màu nâu có quai dây xách bằng vải màu nâu nhãn hiệu Lahada, 01 ống hút màu vàng, 03 bật nửa ga.

Tịch thu cho phát mại sung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Noika 105 màu đen có sim thuê bao số 0975609221 riêng sim cho tiêu hủy.

Trả bị cáo Nguyễn Văn H: 01 chứng minh thư nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Văn Huấn; 01 ví giả da màu đen, số tiền 2.470.000 đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S4 màu trắng có sim thuê bao số 01656674448 Trả anh Lê Xuân M1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 có sim số 0984103695 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1 màu đen đã cũ sim số 01668351189.

Trả ông Lê Xuân M2 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen không đeo biển số, 01 chiếc biển số xe 36B2 – 84508 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô do Công an huyện Cẩm Thủy – Thanh Hóa cấp cho xe BS 36B2 – 845.08, chủ xe là ông Lê Xuân M2.

 (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Yên Mỹ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mỹ và giữa TAND huyện Yên Mỹ và Chị cục thi hành án dân sự huyện Yên Mỹ)

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 ngày 30 tháng 12 năm 2016, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí.

- Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ

thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2017/HSST ngày 20/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:63/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mỹ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về