Bản án 63/2019/HS-ST ngày 11/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 11 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 57/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Lưu Văn Đ, sinh ngày 19 tháng 2 năm 1997 tại tỉnh Hưng Yên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm T, thôn T, thị trấn Y, huyện Y1, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lưu Văn M và bà Nguyễn Thị D; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2019 đến nay. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Thông H. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Trương Bá P. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 12/2018 tại khu vực Chợ Y, huyện Y 1, tỉnh Hưng Yên, Lưu Văn Đ gặp một người đàn ông tự giới thiệu tên là Nguyễn Văn H, sinh năm 1993, ở cùng xóm với Lưu Văn Đ và đặt vấn đề thuê Lưu Văn Đ vận chuyển pháo từ Lạng Sơn về Hưng Yên.

Khoảng 12 giờ ngày 14/01/2019, Nguyễn Văn H liên lạc thuê Lưu Văn Đ đi vận chuyển pháo từ Lạng Sơn về Hưng Yên sẽ được trả tiền công 400.000 đồng và hẹn Lưu Văn Đ ra ngã tư đầu làng sẽ có người đến để đưa tiền. Khi Lưu Văn Đ ra đến điểm hẹn thì có một người thanh niên (không rõ tên tuổi, địa chỉ) đến đưa cho Đ 3.500.000 đồng, 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen và nói lên Lạng Sơn sẽ có người liên lạc đi nhận pháo. Đến khoảng 17 giờ ngày 14/01/2019, Lưu Văn Đ đón xe khách lên Bến xe phía bắc Lạng Sơn, sau đó tiếp tục bắt xe lên cửa khẩu T để nhận pháo nhưng do chưa có pháo nên Lưu Văn Đ đã thuê trọ ngủ để đợi nhận pháo.

Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 15/01/2019, có một người đàn ông gọi điện thoại cho Lưu Văn Đ bảo Lưu Văn Đ đi ra gần đường khu vực chợ T đứng, khi Lưu Văn Đ ra đến điểm hẹn chờ khoảng 15 phút thì có một người đàn ông khoảng 35 tuổi (không biết tên tuổi, địa chỉ), điều khiển xe mô tô Honda Wave màu xanh chở 01 vali màu nâu vàng bên trong có 08 bánh pháo, 37 quả pháo trứng và 01 (một) túi nilon bên trong có 02 bánh pháo cuộn tròn cùng nhiều quả pháo trứng đi đến. Do không lấy được hết pháo nên Lưu Văn Đ chỉ nhận 10 bánh pháo và xếp vào trong vali màu nâu vàng. Lưu Văn Đ trả cho người đàn ông bán pháo 3.100.000 đồng sau đó mang vali theo bắt xe khách đi đến ngã tư M. Khoảng 20 giờ cùng ngày, tại ngã tư M, Lưu Văn Đ bắt xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning biển kiểm soát 12A-107.45 của anh Nguyễn Thông H xuống ngã ba Y để bắt xe về Hưng Yên, khi đi được khoảng 500m đến địa phận Thôn T 1, xã M, thành phố L thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lưu Văn Đ 10 bánh pháo hình trụ, mỗi bánh có kích thước 30 cm x 6 cm bọc ni lông và giấy màu đỏ, bên trong gồm nhiều quả pháo hình trụ nhỏ có đầu dây liên kết với nhau và 01 va li màu nâu vàng.

Tại biên bản xác định trọng lượng pháo ngày 15/01/2019 tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, xác định 10 bánh pháo thu giữ của Lưu Văn Đ có trọng lượng 08 kg.

Tại bản kết luận giám định số 60/KL-PC09 ngày 17/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Các mẫu vật thu của Lưu Văn Đ gửi giám định đều có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây ra tiếng nổ.

Với nội dung vụ án như trên, tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 21 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lưu Văn Đ về tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Văn Đ thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố.

Người làm chứng anh Nguyễn Thông H trình bày: Ngày 15/01/2019 anh điều khiển xe ô tô Kia Morning, biển kiểm soát 12A-107.45 lên Tân Thành mua giống cây. Khoảng 19 giờ 30 phút, trên đường về đến khu vực ngã tư M, thành phố L anh gặp và cho Lưu Văn Đ, có xách theo va li đi nhờ xuống ngã ba Y để tiện bắt xe về Hà Nội, khi đi qua khu vực nhà máy xi măng khoảng 300m thì bị lực lượng công an yêu cầu dừng xe và kiểm tra xe, phát hiện trong chiếc va li của Lưu Văn Đ có pháo nổ, cơ quan công an đã tiến hành lập biên bản và thu giữ vali pháo.

Người chứng kiến ông Trương Bá P vắng mặt tại phiên tòa, lời khai có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 20 giờ ngày 15/01/2019, ông được chứng kiến sự việc lực lượng Công an thành phố Lạng Sơn bắt quả tang việc vận chuyển pháo và thu giữ tang vật đúng như bị cáo khai nhận.

Tại phiên tòa, trong lời luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Lưu Văn Đ phạm tội Vận chuyển hàng cấm, xử phạt bị cáo từ 03 tháng đến 05 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, trả lại cho bị cáo Lưu Văn Đ 01 (một) điện thoại di động hiệu Apple Iphone 5 màu bạc. Xác nhận 08 bánh pháo hình trụ tròn Cơ quan điều tra đã tiêu hủy. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, trong lời nói sau cùng bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng bị thu giữ, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 15/01/2019, tại đường quốc lộ 1A, thuộc địa bàn thôn T, xã M, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Lưu Văn Đ đã có hành vi vận chuyển 08kg pháo nổ, là mặt hàng nhà nước cấm kinh doanh. Khi thực hiện hành vi trên bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Vận chuyển hàng cấm, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có thể chất phát triển bình thường, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, buôn bán, vận chuyển và đốt pháo nổ; nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đo đó hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm.

[4] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe, có hiểu biết và nhận thức được việc vận chuyển pháo nổ là hành vi vi phạm pháp luật, bị nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện nên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn với bị cáo là cần thiết, ấn định dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự cũng đủ để bị cáo có thời gian tập trung học tập, cải tạo và trở thành công dân có ích cho xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lí vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu hóa giá sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bị cáo sử dụng để liên lạc vận chuyển pháo. Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Apple Iphone 5 màu bạc vì không liên quan đến hành vi phạm tội. Xác nhận Cơ quan điều tra đã tiêu hủy toàn bộ 08 bánh pháo nổ (phần hao hụt do lấy làm mẫu giám định) và 01 va li màu nâu vàng.

[10] Đối với anh Nguyễn Thông H không biết bên trong vali của Lưu Văn Đ chứa pháo nổ, cơ quan điều tra không đề nghị xử lý và thu giữ chiếc xe ô tô là có cơ sở. Đối với người đàn ông tên Nguyễn Văn H, người thanh niên đưa tiền cho Lưu Văn Đ và người đàn ông bán pháo cho Lưu Văn Đ Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không làm rõ được lai lịch nên không có căn cứ để xử lý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lưu Văn Đ phạm tội Vận chuyển hàng cấm.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lưu Văn Đ 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/01/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

- Xác nhận Cơ quan điều tra đã tiêu hủy toàn bộ 08 bánh pháo nổ còn lại sau giám định và 01 va li màu nâu vàng.

- Tịch thu hóa giá sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số IMEI 356967092599471, điện thoại cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong.

- Trả lại cho bị cáo Lưu Văn Đ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 5 màu bạc, số IMEI 013619000094690, điện thoại cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22 tháng 3 năm 2019)

4. Về án phí: Bị cáo Lưu Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 11/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về