Bản án 63/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:45/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thành D, sinh năm 1987 tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp L1, xã L2, huyện C, tỉnh A; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thành Đ (đã chết) và bà Lê Thị B, sinh năm 1962; vợ tên Nguyễn Thị N, sinh năm 1989; bị cáo có 01 người con tên Lê Thành V, sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11 tháng 11 năm 2018, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 00 phút ngày 11/11/2018, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Thuận An phối hợp Công an phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An tiến hành kiểm tra hành chính nhà trọ T thuộc khu phố Bình Phước A, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Khi kiểm tra đến phòng trọ số 92A do Huỳnh Văn Th thuê trọ, lúc này tại phòng trọ có 05 đối tượng sau: Huỳnh Văn Th, Lê Thành D, Nguyễn Minh Th1, Lê Hoàng L3, Dương Văn L4. Do nghi vấn D có dấu hiệu sử dụng ma túy nên công an đã tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong ví da để ở túi quần sau bên phải của D 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp). Lực lượng công an tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang đối với Lê Thành D và đưa người cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Qua điều tra Lê Thành D khai nhận: 01 gói nylon hàn kín bị thu giữ là ma túy D mua từ một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực vòng xoay An Lạc, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 10/11/2018 với giá 500.000 đồng. Lê Thành D mua số ma túy trên về để sử dụng, D đã sử dụng được một ít, số còn lại D cất vào ví da để lần khác sử dụng thì bị công an phát hiện, thu giữ.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng. Tại Bản kết luận giám định số 672/MT-PC09 ngày 20 tháng 11 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon hàn kín gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,5370 gram.

Tại Bản cáo trạng số 67/CT-VKS-TA ngày 13 tháng 02 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Thành D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Lê Thành D từ 01 năm 03 tháng đến 01năm 06 tháng tù. Ngoài ra đại diện Viện Kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ để bị cáo sớm trở về lo cho mẹ già và con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Thuận An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo c ng như những người tham gia tố tụng khác không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Lê Thành D đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, người chứng kiến tại cơ quan điều tra và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận: 

Lê Thành D là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày11/11/2018, tại phòng số 92A, nhà trọ T thuộc khu phố Bình Phước A, phường Bình Chuẩn, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo D đã có hành vi tàng trữ 0,5370 gram ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt giữ người cùng tang vật. Như vậy, hành vi trên của bị cáo D đã đủyếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điểm c,Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, bản Cáo trạng số 67/CT-VKS-TA ngày 13 tháng 02 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố đối với bị cáo D là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, còn là nguyên nhân dẫn đến phát sinh các loại tội phạm khác. Về nhận thức, bị cáo hoàn toàn biết hành vi tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

 [3] Tuy nhiên khi quyết định về hình phạt cần xem xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo D là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [4] Về xử lý vật chứng: Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định có tổng khối lượng 0,4688 gram ma túy loại Methamphetamine là vật chứng trong vụ án, xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 [5] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo D do không xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

 [6] Đối với Nguyễn Hoàng G, Nguyễn Minh Th1, Huỳnh Văn Th, Dương Văn L4, Lê Hoàng L3 do không biết việc bị cáo D cất dấu ma túy trong người nên không xem xét xử lý.

 [7] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo D phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm c, Khoản 1, Điều 249; Khoản 1, Điều 47; Điểm s, Khoản 1, Điều 51Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, 136, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Thành D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lê Thành D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 11 năm 2018.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong ký hiệu 672/ PC09 (mẫu vật hoàn lại sau giám định).

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 28 tháng 01 năm 2019 giữa Công an thị xã Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An).

3. Về án phí: Bị cáo Lê Thành D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về