Bản án 63/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 63/2019/HSST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 17 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mường La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2019/ QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo.

1. Họ và tên: Lò Văn T, sinh ngày: 22/10/1987 tại Ít Ong, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Nà Nhụng, xã Mường Chùm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 0/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Phớ, sinh năm 1966 và con bà Lò Thị Phấn, sinh năm 1966, có vợ là Lò Thị Hưng, sinh năm 1988 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2012, hiện nay đều cư trú tại bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27 tháng 4 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Lò Văn S, sinh ngày: 25/9/1984 tại Tạ Bú, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Bính, sinh năm 1954 và con bà Lò Thị Khụi, sinh năm 1956, có vợ là Vì Thị Chaư, sinh năm 1992 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2009, hiện nay đều cư trú tại bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27 tháng 4 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

3. Họ và tên: Lò Văn Tu, sinh ngày: 01/01/1989 tại Tạ Bú, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Bính, sinh năm 1954 và con bà Lò Thị Khụi, sinh năm 1956, có vợ là Cà Thị Xây, sinh năm 1995 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2018, hiện nay đều cư trú tại bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27 tháng 4 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

4. Họ và tên: Lò Văn Th, sinh ngày: 03/9/1998 tại Ít Ong, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Nà Nhụng, xã Mường Chùm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Lả, sinh năm 1973 và con bà Lò Thị Xôm, sinh năm 1973, hiện nay đều cư trú tại bản Nà Nhụng, xã Mường Chùm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, bị cao chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 6 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

5. Họ và tên: Lò Văn Th, sinh ngày: 01/01/1994 tại Tạ Bú, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Bính, sinh năm 1954 và con bà Lò Thị Khụi, sinh năm 1956, có vợ là Lò Thị Diên, sinh năm 2001 và có 01 con sinh năm 2017, hiện nay đều cư trú tại bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 6 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

6. Họ và tên: Cà Văn H, sinh ngày: 20/6/1991 tại Tạ Bú, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Cà Văn Ban, sinh năm 1968 và con bà Cà Thị Siêng, sinh năm 1972, có vợ là Lò Thị Phiên, sinh năm 1991 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2012, hiện nay đều cư trú tại bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 6 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

7. Họ và tên: Cà Văn D, sinh ngày: 20/02/1987 tại Tạ Bú, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Đảng viên, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng từ ngày 31/5/2019; Con ông Cà Văn Lịch, sinh năm 1962 và con bà Lò Thị Biêng, sinh năm 1966, có vợ là Lò Thị Thỏa, sinh năm 1988 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2008, hiện nay đều cư trú tại bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 6 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

8. Họ và tên: Lò Văn Th, sinh ngày: 21/5/1997 tại Tạ Bú, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn Hặc, sinh năm 1972 và con bà Lò Thị Mai, sinh năm 1977, hiện nay đều cư trú tại bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 6 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

9. Họ và tên: Quàng Văn C, sinh ngày: 04/12/1990 tại Tạ Bú, Mường La, Sơn La; NĐKHKTT: Bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Quàng Văn Xim, sinh năm (không nhớ) và con bà Quàng Thị Giót, sinh năm (không nhớ), có vợ là Quàng Thị Phương, sinh năm 1994 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2016, hiện nay đều cư trú tại bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02 tháng 6 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn S, Cà Văn H, Cà Văn D, Lò Văn Th: Ông Đàm Mạnh Hùng, là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý - Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T, Lò Văn Th: Ông Cầm Trọng Thủy - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Các người bị hại:

- Chị Vì Thị Sơn. Sinh năm 1995. Nơi cư trú: Bản Cang, xã Pi Toong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Ông Lò Văn Hiểng. Sinh năm 1977. Nơi cư trú: Bản Nà Trang, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Anh Kiều Ngọc Tuấn Vũ. Sinh năm 1990. Nơi cư trú: Tiểu khu 2, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Anh Lò Chinh Thành. Sinh năm 1986. Nơi cư trú: Bản Văn Minh, xã Mường Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ông Ly A Phua. Sinh năm 1973. Nơi cư trú: Bản Phiêng Phả, xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Anh Lò Văn Nam. Sinh năm 1998. Nơi cư trú: Bản Hua Ít, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên toà.

- Anh Mùa A Dênh. Sinh năm 1999. Nơi cư trú: Bản Thẳm Cọng, xã Hua Trai, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Anh Tòng Văn Hương. Sinh năm 1997. Nơi cư trú: Bản Co Bay, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên toà.

- Anh Kiều Hoàng Minh. Sinh năm 1995. Nơi cư trú: Tiểu khu 1, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Anh Vàng A Só (Số). Sinh năm 1989. Nơi cư trú: Bản Huổi Có, xã Nậm Păm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Chị Vì Thị Thoại. Sinh năm 1994. Nơi cư trú: Bản Cang, xã Pi Toong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo uỷ quyền cho bị hại Ly A Phua:

- Anh Ly A Chính. Sinh năm 1988. Nơi cư trú: Bản Phiêng Phả, xã Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Lò Văn Sen. Sinh năm 1985. Nơi cư trú: Bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Chị Lò Văn Tân. Sinh năm 1990. Nơi cư trú: Bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

- Anh Lò Văn Lả. Sinh năm 1973. Nơi cư trú: Bản Nà Nhụng, xã Mường Chùm, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại Bản cáo trạng số 574/KSĐT-TA ngày 22/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La truy tố bị các bị cáo Lò Văn Tiếp, Lò Văn Thủy, Quàng Văn Cường về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo Lò Văn Son về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo điểm c khoản 2 Điều 323 của Bộ luật Hình sự. Truy tố các bị cáo Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 4/2019 các bị cáo Lò Văn Tiếp, Lò Văn Thủy, Quàng Văn Cường và ba đối tượng là Lò Văn Thơ; Lò Văn Lăm; Lường Văn Ngọc đã thực hiện 11 vụ trộm cắp tài sản, chiếm đoạt 11 chiếc xe máy của 11 người bị hại, sau đó đem bán cho Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời thì bị phát hiện, các vụ trộm cắp xe máy và tiêu thụ xe máy cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 13/01/2019 Quàng Văn Cường, Lò Văn Lăm đến nhà Lường Văn Ngọc chơi, Ngọc nói với Cường: “Chúng mày cứ tìm trộm xe máy đi, trộm được thì mang xuống cho tao bán, tao biết chỗ bán đấy”, Quàng Văn Cường, Lò Văn Lăm đồng ý. Đêm ngày 16/01/2019 Cường, Lăm ngủ tại lán nương của gia đình Cường ở gần đầu cầu cứng Mường La (thuộc bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La), sáng ngày 17/01/2019 Quàng Văn Cường, Lò Văn Lăm ngủ dậy rồi cùng nhau đi ra đường thì thấy 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS 26B1-030.36 màu đỏ-đen đang để dưới đường bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La không có người trông coi, Cường liền dùng chìa khóa của mình đem theo từ trước để mở ổ khóa điện xe máy, nổ máy xe và điều khiển xe máy, thấy vậy Lăm ngồi lên sau xe cùng Cường đi đến khu vực cầu bản Két, xã Tạ Bú, Cường trông xe còn Lăm đi đến nhà Ngọc bảo Ngọc đem xe máy đi bán. Lường Văn Ngọc đi xe máy đến và nói: “Mang xuống bản Pết, xã Tạ Bú bán cho cậu tao đi”, Lăm không đi cùng Cường và Ngọc mà ở lại chờ, Ngọc và Cường mỗi người đi 1 xe máy. Trên đường đi bán xe máy Ngọc gọi điện thoại cho Lò Văn Son nói với Son: “Có mấy thằng nghiện trộm được xe đang muốn bán, cậu có mua không, bọn cháu đang mang xe xuống rồi?”, Son trả lời: “Cứ mang xuống cho cậu xem đi”, khi Cường, Ngọc gặp Son ở khu vực bản Pết thì Cường bán chiếc xe máy lấy trộm được cho Son với số tiền 3.500.000 đồng, Cường chia cho Ngọc 500.000 đồng, chia cho Lăm 1.500.000 đồng, còn Cường sử dụng hết 1.500.000 đồng. Ngày 24/4/2019 Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La đã thu giữ chiếc xe máy BKS 26B1-03036 tại nhà của Lò Văn Son.

Ngày 25/4/2019 và ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS 26B1-030.36 màu đỏ-đen (Số khung: 395339, số máy: 395344) của Vì Thị Sơn trị giá 8.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Ngày 15/3/2019 Lò Văn Thơ gặp Lường Văn Ngọc ở khu vực đường bản Dạng cũ, thị trấn Ít Ong, Mường La, Thơ hỏi Ngọc: “Mày đi đâu đấy? Có biết chỗ nào bán xe không? Dạo này ngoài đường có nhiều xe để lấy trộm lắm”, Ngọc trả lời: “Gọi điện nói chuyện sau đi”, do trước đó Ngọc biết cậu của Ngọc là Lò Văn Son đang tìm mua xe máy để đi làm nương nên Ngọc gọi điện thoại lại cho Thơ và bảo: “Có người mua đấy, mày tìm xe đi”, Thơ trả lời: “Lúc nào có xe thì tao gọi cho”. Đến khoảng 21h 30 phút ngày 18/3/2019 Lò Văn Thơ đi xe máy nhãn hiệu LONCIN DREAM đến nhà Lò Văn Tiếp, Thơ rủ Tiếp vào thị trấn Ít Ong, huyện Mường La chơi, Tiếp đồng ý. Lò Văn Thơ chở Lò Văn Tiếp vào thị trấn Ít Ong, trên đường đi Thơ nói với Tiếp: “Dạo này không có tiền tiêu gì cả, vào tìm con xe nào mang bán đi”, Tiếp hiểu là tìm trộm xe máy nên đồng ý. Thơ, Tiếp đi đến khu vực gần cổng trường cấp 3 Mường La thì thấy có nhiều xe máy dựng ở gần một quán Internet không có người trông coi, điện ngoài đường đã tắt hết. Thơ giao xe của mình cho Tiếp và nói: “Mày trôi xe tao xuống cây xăng Đậu Thắm đợi, tao lấy một con xe rồi trôi xuống sau”, Tiếp đồng ý rồi điều khiển xe của Thơ trôi xuống dốc đến cây xăng Đậu Thắm chờ, còn Thơ lén lút lấy trộm chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, BKS 26B1-838.50 màu đỏ-đen, đang để ở ngoài quán Internet rồi điều khiển thả trôi xe xuống chỗ Tiếp đang chờ, Thơ nói với Tiếp: “Tao lấy được xe rồi”. Thơ dùng dây cao su có sẵn buộc chiếc xe máy vừa lấy trộm để Tiếp kéo xe đi đến khu vực ngã ba đường rẽ đi xã Chiềng San, huyện Mường La thì dừng lại. Thơ dùng kìm đem theo từ trước để cắt dây điện nối với ổ khóa và khởi động cho chiếc xe máy vừa lấy trộm được nổ máy. Sau đó Lò Văn Thơ gọi điện thoại cho Lường Văn Ngọc bảo Ngọc dẫn đi bán xe máy, Ngọc bảo Thơ đem xe xuống bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La. Thơ điều khiển xe máy vừa trộm được, còn Tiếp điều khiển xe máy của Thơ đi đến đầu bản Pết thì gặp Ngọc, Ngọc dẫn Thơ, Tiếp đi đến khu vực gần suối Huổi Ban thuộc bản Pết thì dừng lại, khoảng 05 phút sau thì Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn đi xe máy đến, Son hỏi: “Xe này chúng mày trộm à?”, Lò Văn Thơ nói: “Xe chúng cháu lấy trộm ở thị trấn”, Son và Tuấn cùng xem chiếc xe máy Thơ và Tiếp lấy trộm, sau đó Son đồng ý mua chiếc xe và trả cho Thơ 4.500.000 đồng, Son đem chiếc xe máy vừa mua được về cất tại nhà Tuấn, sáng hôm sau Tuấn trả cho Son 4.500.000 đồng và lấy chiếc xe máy để sử dụng. Sau khi bán được chiếc xe máy thì Tiếp, Thơ, Ngọc đi về khu vực bản Dạng cũ thuộc thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, Thơ chia cho Ngọc 400.000 đồng tiền bán chiếc xe máy, số tiền còn lại 4.100.000 đồng Lò Văn Thơ, Lò Văn Tiếp cùng nhau tiêu xài hết. Ngày 24/4/2019 cơ quan điều tra Công an huyện Mường La đã thu giữ chiếc xe máy BKS 26B1-838.50 tại nhà của Lò Văn Tuấn.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, BKS 26B1-838.50 màu đỏ-đen, (Số khung:193690, số máy:1761332) của Lò Văn Hiểng có trị giá 9.000.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 21h ngày 20/3/2019 Lò Văn Thơ gọi điện thoại rủ Lò Văn Thủy đi vào thị trấn Ít Ong, huyện Mường La chơi, Thủy đồng ý. Đến khoảng 22h ngày 20/3/2019 Thủy lấy xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, BKS 26B1-453.40 đi đến nhà Thơ chở Thơ vào thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, trên đường đi Thơ nói với Thủy: “Dạo này không có tiền nong gì, tìm cái gì để trộm, tao thấy dạo này xe cộ để ngoài đường nhiều lắm”, khi đi đến khu vực gần cổng trường Trung học cơ sở thị trấn Ít Ong thì dừng xe, Thơ xuống xe và bảo Thủy đi đến khu vực cổng trường Phổ thông dân tộc nội trú chờ, còn Thơ đi bộ vào khu vực trước cửa quán điện tử Anh Dũng thuộc tiểu khu 4, thị trấn Ít Ong, Mường La lấy trộm 01 xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen, BKS 28N1-3275, sau đó dắt chiếc xe đến đường dân sinh thuộc bản Nà Tòng, thị trấn Ít Ong, Mường La, Thơ gọi điện thoại bảo Thủy đến đón. Thủy đi xe đến thấy Thơ đang dắt chiếc xe máy BKS 28N1-3275 thì hỏi: “Mày trộm xe thật à?”, Thơ nói: “Mày nói ít thôi, kéo xe về cùng tao đi”, sau đó Thơ buộc hai xe vào với nhau, Thủy điều khiển xe máy của mình kéo theo Thơ điều khiển xe máy BKS 28N1-3275 đến khu vực bến cảng bản Dạng cũ, thị trấn Ít Ong thì dừng lại, Thơ gọi điện thoại nói với Lường Văn Ngọc “Tao lấy được xe nữa rồi, gọi cậu mày đi, rồi xuống cùng tao”, Ngọc gọi điện thoại nói với Lò Văn Son: “Cậu có mua xe nữa không? Hai thằng bản Dạng lại có xe mang xuống bán cho cậu”, Son bảo Ngọc mang xe đến để xem, sau đó Ngọc đi xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE, BKS 26L1-076.03 của mình đến khu vực bến cảng bản Dạng cũ thì thấy Thơ đang dùng tay tháo dây điện nối với ổ khóa và khởi động cho xe BKS 28N1-3275 nổ máy. Lường Văn Ngọc dẫn Thơ, Thủy đem chiếc xe máy lấy trộm được đến khu vực suối Huổi Ban thuộc bản Pết, xã Tạ Bú. Tại đây Ngọc, Thơ, Thủy gặp Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn, Son hỏi: “Lại lấy trộm xe ở đâu về đấy?”, Thơ trả lời: “Xe lấy trộm xa lắm, yên tâm đi”, sau đó Son và Tuấn xem xe, Son đồng ý mua chiếc xe máy với số tiền 4.000.000 đồng, trả cho Thơ 3.500.000 đồng, nợ lại 500.000 đồng hẹn khi nào Ngọc đến lấy sau. Sau khi bán được chiếc xe máy thì Thơ, Ngọc, Thủy đi về bản Dạng cũ, Thơ chia cho Thủy 1.000.000 đồng, cho Ngọc 400.000 đồng, Thủy và Ngọc đã chi tiêu hết số tiền được chia. Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La đã thu giữ chiếc xe máy BKS 28N1-3275 tại nhà của Lò Văn Son.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen, BKS 28N1-3275 (Số khung: 162283, số máy: 2662268) của Kiều Ngọc Tuấn Vũ trị giá 8.000.000 đồng.

Vụ thứ bốn: Khoảng 16h ngày 23/3/2019 Lò Văn Tiếp đang ở nhà tại bản Dạng cũ, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La thì Lò Văn Thơ đến rủ đi lấy trộm xe máy, Thơ nói: “Đi tìm trộm xe đi”, Tiếp hỏi lại: “Đi trộm ở đâu”, Thơ nói: “Cứ ra khu Mường Bú tìm đi”, Tiếp đồng ý rồi cùng Thơ đi bộ ra cầu cứng Mường La, đi xe bus ra xã Mường Bú, huyện Mường La, khi đến khu vực ngã ba bản Giàn, xã Mường Bú thì Tiếp, Thơ xuống xe đi bộ đến trước cửa hiệu cầm đồ 86 thuộc bản Giàn, xã Mường Bú thì thấy chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA DREAMII, BKS 26L1-001.00 đang để trước cửa hiệu cầm đồ xung quanh không có người trông coi, Thơ bảo Tiếp đi bộ trước về hướng huyện Mường La, Tiếp đi được khoảng 100m thì thấy Thơ đã lấy trộm được chiếc xe máy BKS 26L1-001.00 điều khiển đuổi theo, Thơ bảo Tiếp lên ngồi sau xe đi về hướng huyện Mường La, trên đường đi Lò Văn Thơ gọi điện thoại cho Lường Văn Ngọc nói: “Bọn tao lấy được một con Dream ở Mường Bú, mày gọi cậu mày đi”, Ngọc liền gọi điện thoại cho Lò Văn Son nói: “Mấy thằng nghiện bản Dạng trộm được một xe Dream cậu có mua không?”, Son nói: “Thế mang xuống cho cậu xem thế nào?”, sau đó Ngọc gọi điện thoại cho Thơ bảo Thơ mang xe đến bản Pết, xã Tạ Bú, đồng thời Ngọc cũng lấy xe máy BKS 26L1-076.03 của mình đến điểm hẹn. Thơ, Tiếp, Ngọc đến khu vực đầu bản Pết, xã Tạ Bú chờ khoảng 05 phút thì Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn đến, Son xem chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA DREAM II, BKS 26L1-001.00 xong thì nói: “Xe này thấp lắm không đi nương được”, Thơ nói: “Cháu mang xuống rồi thì mua giúp cháu đi”, sau đó Thơ đồng ý bán chiếc xe máy cho Son với số tiền 2.700.000 đồng, sau khi mua bán xe xong Thơ chia cho Ngọc 500.000 đồng, Ngọc dùng xe máy của mình chở Tiếp, Thơ về bản Dạng cũ rồi đi về, còn Son, Tuấn đem chiếc xe máy BKS 26L1-001.00 về để ở nhà Tuấn để sử dụng. Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La đã thu giữ chiếc xe máy BKS 26L1-001.00 tại nhà của Lò Văn Tuấn.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu nhãn hiệu HONDA DREAM II (BKS 26L1-001.00 bị tháo khỏi xe, số khung: 1649100, số máy: 349416) của Lò Chinh Thành có giá trị 15.000.000 đồng.

Vụ thứ năm: Tối ngày 24/3/2019 Ly A Tao để chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE &, BKS 26B1-39224 màu đen-bạc (Là xe của ông Ly A Phua, bố của Ly A Tao) trước cửa phòng trọ của mình tại nhà trọ Đức Ngôn ở bản Nà Lốc, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La rồi đi ngủ, sáng ngày 25/3/2019 thì phát hiện bị mất nên trình báo cơ quan Công an huyện Mường La. Qua điều tra xác định được đêm 24/3/2019 Lò Văn Thơ đã lấy trộm chiếc xe máy này, sau đó gọi điện thoại cho Lường Văn Ngọc, Thơ nói với Ngọc: “Tao vừa trộm được một xe WAVE màu đen nữa, mày gọi cho cậu mày đi”, Ngọc trả lời: “Đợi tao tí”, sau đó Ngọc gọi điện thoại cho Lò Văn Son nói là: “Cậu mua xe nữa không, thằng Thơ lại trộm được một xe WAVE màu đen?”, Son nói với Ngọc: “Mang xe xuống xem sao”, Son gọi điện thoại cho Cà Văn Hồng bảo Hồng đi xem cùng, sau đó Son dùng xe máy BKS 26B1-608.00 của mình để chở Cà Văn Hồng đi đến khu vực suối Huổi Ban thì gặp Ngọc và Thơ, hai bên thống nhất giá giao dịch là 4.000.000 đồng. Hồng đồng ý và đếm tiền đưa cho Son, Son đếm lại tiền rồi đưa cho Thơ 4.000.000 đồng, Thơ nhận tiền rồi giao chiếc xe máy cho Hồng đem về sử dụng. Lường Văn Ngọc dùng xe máy của mình chở Lò Văn Thơ về bản Dạng cũ, Thơ chia cho Ngọc 400.000 đồng, Ngọc đã tiêu xài hết. Cơ quan điều tra Công an huyện Mường la đã thu giữ chiếc xe máy BKS 26B1-39224 tại nhà của Cà Văn Hồng.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE &, BKS 26B1-39224 màu đen-bạc, (Số khung: 319385; số máy: 3119352) của Ly A Phua (Do Ly A Tao sử dụng bị mất trộm) trị giá 8.000.000 đồng.

Vụ thứ sáu: Khoảng 22h ngày 31/3/2019 Lò Văn Nam đem chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA-WAVE&, BKS 26B1-322.60 màu đỏ-đen-bạc của ông Lò Văn Chiến ( là bố đẻ của Nam) đi chơi và để chiếc xe máy ở lối đi vào khu nhà trọ phía sau cây xăng vật tư thuộc tiểu khu 4, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La và ngủ nhờ luôn tại phòng trọ của Lò Văn Khánh. Khoảng 06h 40 phút sáng 01/4/2019 Nam ngủ dậy thì phát hiện bị mất chiếc xe máy nên báo Công an huyện Mường La. Quá trình điều tra xác định được khoảng 23h ngày 31/3/2019 Lò Văn Thơ đi chơi thấy xe máy BKS 26B1-322.60 dựng để cạnh đường không người trông coi nên đã lấy trộm, sau đó Thơ gọi điện thoại cho Lường Văn Ngọc nói với Ngọc: “Tao lấy được xe rồi, gọi cậu mày luôn đi”, Ngọc đồng ý và gọi điện thoại cho Lò Văn Son nói: “Thơ lấy trộm được một xe nữa, cháu mang xuống nhé”, Son đồng ý và gọi điện thoại cho Cà Văn Du, nói với Du: “Ngọc gọi cho chưa? Nó lấy xe xuống bán đấy, có mua không?”, Du trả lời: “Không thấy gọi gì, em muốn lấy xe nhưng không biết chỗ, anh đi cùng em đi”. Lò Văn Son đồng ý nên đi xe máy BKS 26B1-60800 của mình chở Du đến khu vực suối Huổi Ban thuộc bản Pết, xã Tạ Bú, huyện Mường La thì thấy Lường Văn Ngọc và Lò Văn Thơ đang đợi sẵn, Thơ đứng cạnh chiếc xe máy BKS 26B1-322.60, Ngọc nói: “Xe lấy xuống rồi có mua không?”, Du trả lời: “Có”, sau đó Son, Du kiểm tra chiếc xe máy BKS 26B1-322.60 rồi Du hỏi: “Xe bán bao nhiêu?”, Thơ nói: “Bốn triệu rưỡi”, Du nói tiếp: “Bốn triệu thì mua vì chỉ mang từng đó tiền thôi”, Du hỏi Thơ: “Xe lấy ở đâu?”, Thơ trả lời: “Lấy ở đâu không cần biết”, Du hỏi Thơ tiếp: “Thế xe có giấy tờ không?”, Thơ trả lời: “Xe không có giấy tờ gì”, Du lại hỏi: “Sao lại không có?”, Thơ nói: “Miễn có xe là được, không sao đâu”, Du biết chiếc xe máy là do Thơ lấy trộm đem bán nên quay sang hỏi Son: “Họ mang xe kiểu như này xuống bán có mua được không anh?”, Lò Văn Son nói: “Xe dùng để đi nương nên không sợ đâu, cứ lấy đi”. Cà Văn Du đồng ý mua chiếc xe máy và đưa cho Thơ 4.000.000 đồng, Son và Du đi mỗi người đi 1 xe quay về. Sau khi bán được chiếc xe máy thì Lường Văn Ngọc chở Lò Văn Thơ về bản Dạng cũ, Thơ chia cho Ngọc 400.000 đồng Ngọc đã tiêu sài hết. Chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA-WAVE&, BKS 26B1-322.60 sau đó Cà Văn Du dùng để đi làm nương, sau khi vụ án bị phát hiện Cà Văn Du đã tự giác giao nộp cho cơ quan Điều tra Công an huyện Mường La.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE, BKS 26B1-322.60 màu đỏ-đen-bạc, (Số khung: 421475, số máy: 6369513) của Lò Văn Chiến trị giá 9.000.000đ (Chín triệu đồng).

Vụ thứ bẩy: Khoảng 18h ngày 04/4/2019 Mùa A Dênh đi chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE, BKS 26K8- 3976, màu đen-đỏ của mình đến Bệnh viện đa khoa huyện Mường La, khi đến nơi Dênh dựng chiếc xe ở vỉa hè ngoài bệnh viện rồi vào trong bệnh viện thăm người nhà. Đến khoảng 21h cùng ngày Mùa A Dênh ra về thì phát hiện chiếc xe máy đã bị mất nên trình báo Công an huyện Mường La. Qua điều tra xác định được: Khoảng 20h ngày 04/4/2019 Lò Văn Thơ đi chơi đến khu vực bệnh viện huyện Mường la, thấy xe máy BKS 26K8- 3976 dựng cạnh đường không người trông coi nên đã lấy trộm, sau đó Thơ gọi điện thoại cho Lường Văn Ngọc nói: “Tao vừa lấy trộm được một con xe WAVE, mày gọi cậu mày luôn đi”, Ngọc đồng ý rồi gọi điện thoại nói với Lò Văn Son: “Bọn cháu có một xe WAVE màu đen nữa, Thơ vừa trộm được, bọn cháu đang mang xuống”. Vì biết cháu rể là Lò Văn Thời chưa có xe đi làm nương nên Son gọi điện thoại cho Thời: “Xuống đây đi cùng cậu đi, nếu muốn mua xe để chở ngô”, Thời trả lời: “Vâng, cháu xuống bây giờ”, sau đó Thời đi bộ đến nhà Son. Lò Văn Son dùng xe máy BKS 26B1-60800 của mình chở Lò Văn Thời đến khu vực suối Huổi Ban-Tạ Bú, khi đến nơi thì Lường Văn Ngọc đang đứng cạnh xe máy của Ngọc, còn Lò Văn Thơ đứng cạng một xe máy nhãn hiệu HONDA Wave, BKS 26K8- 3976, Son hỏi Thơ: “Xe này mày lấy trộm chỗ nào đấy?”, Thơ trả lời: “Xe lấy trộm ở dọc đường về, không sợ đâu”. Thời nghe Son và Thơ trao đổi nên biết được đây là xe do trộm cắp mà có, thấy Thơ đồng ý bán xe với số tiền 3.000.000 đồng Thời đã đồng ý mua chiếc xe máy rồi trả tiền cho Thơ và đem chiếc xe máy về sử dụng, còn Ngọc dùng xe máy của mình chở Thơ về bản Dạng cũ, Thơ đưa cho Ngọc 300.000 đồng, số tiền này sau đó Ngọc đã chi tiêu hết. Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La đã thu giữ chiếc xe máy BKS 26K8- 3976 tại nhà Lò Văn Thời.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy của Mùa A Dênh nhãn hiệu HONDA WAVE &, BKS 26K8-3976, màu đen-đỏ, (Số khung: 605021, số máy: 5941507) trị giá 7.500.000đ (Bẩy triệu năm trăm nghìn đồng).

Vụ thứ tám: Khoảng 20h ngày 07/4/2019 Tòng Văn Hương đi chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE, BKS 26B1-489.05 màu vàng-đen-bạc của ông Tòng Văn Dọn (là bố đẻ của Hương) đến quán game của Nguyễn Quang Nghĩa để chơi game, Hương để chiếc xe máy trước cửa quán. Khoảng 21h cùng ngày Hương ra về thì phát hiện bị mất chiếc xe máy nên đã trình báo Công an huyện Mường La. Qua điều tra xác định được: Khoảng 20h 30 phút ngày 07/4/2019 Lường Văn Ngọc đang ngồi uống nước tại quán khu Bảo tàng thủy điện Sơn La, thuộc tiểu khu 5, thị trấn Ít Ong, huyện Mường La thì Lò Văn Thơ tìm đến và nói: “Đi cùng tao lên huyện đi, tao thấy đêm chắc có nhiều xe để ăn lắm đấy”, Ngọc đồng ý và dùng xe máy BKS 26L1-076.03 của mình chở Lò Văn Thơ vào thị trấn Ít Ong, khi đi đến khu vực quán game của Nguyễn Quang Nghĩa ở tiểu khu 2, thị trấn Ít Ong thì Thơ bảo Ngọc: “Tao thấy một xe rồi, mày chưa có kinh nghiệm, mày để tao xuống đây rồi đi về trước, có gì tao gọi cho”, Ngọc dừng xe để Thơ xuống và đi về nhà ở bản Két, xã Tạ Bú, huyện Mường La nghỉ. Đến khoảng 18h ngày 08/4/2019 Thơ gọi điện thoại cho Ngọc và nói: “Gọi cho cậu mày đi, tao với mày xuống bán xe tối qua”, Ngọc gọi điện thoại cho Lò Văn Son nói: “Thơ và cháu trộm được một xe tối qua, cậu lên xem tí đi, cháu mang xuống giờ”. Sau đó Ngọc đi đến bản Dạng cũ, thị trấn Ít Ong thì gặp Thơ đang đứng cạnh chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE, BKS 26B1-489.05, Ngọc điều khiển xe máy của mình còn Thơ điều khiển xe máy đã lấy trộm có BKS 26B1-489.05 đi đến suối Huổi Ban thuộc bản Pết, xã Tạ Bú. Sau khi nhận được điện thoại của Ngọc thì Son gọi điện thoại bảo Lò Văn Tuấn: “Lên lấy xe cùng anh, Ngọc và mấy thằng nghiện hôm trước mang xe trộm được xuống bán”, Tuấn trả lời: “Vâng, chờ em một chút”, Son lấy xe máy BKS 26B1-60800 của mình chở Tuấn đi đến khu vực suối Huổi Ban thuộc bản Pết - Tạ Bú thì thấy Ngọc, Thơ đang đứng chờ, cùng chiếc xe máy của Ngọc và chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE, BKS 26B1-489.05. Son, Tuấn xem chiếc xe máy thống nhất mua với giá 2.000.000 đồng, Thơ đồng ý. Son mua và đem chiếc xe máy về nhà để sử dụng. Lường Văn Ngọc dùng xe máy của mình chở Thơ về bản Dạng cũ, tại đây Thơ chia cho Ngọc 500.000 đồng, số tiền này Ngọc đã tiêu sài hết. Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La đã thu giữ chiếc xe máy BKS 26B1-489.05 tại nhà của Lò văn Son.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy của Tòng Văn Dọn (Do Tòng Văn Hương sử dụng bị mất) nhãn hiệu HONDA WAVE &, BKS 26B1-489.05 màu vàng-đen-bạc, (Số khung: 406334, số máy: 3206058) trị giá 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

Vụ thứ chín: Khoảng 20h ngày 17/4/2019 Lò Văn Thơ gọi điện thoại cho Lò Văn Thủy rủ Thủy đi lấy trộm xe máy, Thơ nói: “Đi cùng tao đi, tao thấy con xe này ngon lắm”, Thủy đồng ý và nói: “Để muộn hơn một tí mới đi”. Đến khoảng 22h cùng ngày Lò Văn Thủy dùng xe máy nhãn hiệu HONDA Wave RSX, BKS 26B1-453.40 của gia đình đến khu bản Dạng cũ, thị trấn Ít Ong chở Lò Văn Thơ vào thị trấn Ít Ong, huyện Mường La, khi đi đến khu vực cổng trường Trung học cơ sở thị trấn Ít Ong, thuộc tiểu khu 4, thị trấn Ít Ong thì Thủy dừng xe để Thơ xuống, Thơ bảo Thủy đi đến ngã ba Nà Kè, thị trấn Ít Ong chờ, còn Lò Văn Thơ lấy trộm chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, BKS 26L1-040.79 màu đỏ-đen đang để trước cửa quán điện tử Dũng Thự, thuộc tiểu khu 4, thị trấn Ít Ong, Thơ nổ máy xe đi đến chỗ Thủy chờ rồi gọi điện thoại cho Lường Văn Ngọc nói: “Tao lấy được xe rồi, tao với Thủy đang xuống, mày gọi cậu mày đi”, Ngọc trả lời: “Tao đang ở đây rồi, mày cứ xuống đi”, Lò Văn Thủy điều khiển xe máy BKS 26B1-453.40, Lò Văn Thơ điều khiển xe máy BKS 26L1-040.79 cùng nhau đi đến khu suối Huổi Ban thuộc bản Pết-Tạ Bú. Lúc nghe điện thoại của Thơ gọi đến thì Lường Văn Ngọc đang ngồi ăn cơm cùng Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn tại nhà của Tuấn, nên Ngọc nói với Son: “Thơ vừa trộm được một xe, nó đang xuống đấy”, Son nói: “Thế chuẩn bị lên xem đi để cậu chuẩn bị tiền”. Khoảng 45 phút sau thì Lò Văn Son dùng xe máy BKS 26B1-60800 của mình chở Lò Văn Tuấn, còn Lường Văn Ngọc đi xe máy BKS 26L1-076.03 của mình cùng nhau đi đến khu suối Huổi Ban gặp Thơ. Khi Son, Tuấn, Ngọc đi đến nơi thì thấy Thơ, Thủy cùng 2 chiếc xe máy, Thơ chỉ chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, BKS 26L1-040.79 vừa lấy trộm cho Son, Tuấn xem xe và thỏa thuận bán chiếc xe với số tiền 2.600.000 đồng, Son đồng ý và đưa cho Thơ 2.600.000 đồng và nhận chiếc xe máy BKS 26L1-040.79 đem về nhà để sử dụng, sau khi bán được chiếc xe máy thì Thơ, Thủy, Ngọc đi về bản Dạng cũ, Thơ chia cho Ngọc 400.000 đồng, số tiền này Ngọc đã tiêu sài hết, số tiền còn lại còn 2.200.000 đồng Thơ với Thủy cùng nhau tiêu sài hết. Đối với chiếc xe máy BKS 26L1-040.79, sau khi đem về nhà Lò Văn Son mở yên xe kiểm tra thì thấy có đăng ký mang tên Trịnh Quốc Đoàn nên đã bán lại xe cho em trai là Lò Văn Sen với số tiền 2.500.000 đồng, do không biết là tài sản trộm cắp mà có nên Lò văn Sen đã mua xe và đem về sử dụng. Sau khi vụ án bị phát hiện, ngày 02/5/2019 Lò Văn Sen mới biết nguồn gốc chiếc xe máy và giao nộp chiếc xe cho cơ quan Công an huyện Mường La.

Ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy máy của Kiều Hoàng Minh nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, (BKS 26L1-040.79 đã bị tháo khỏi xe) màu đỏ-đen, số khung: 053103, số máy: 0183900 trị giá 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng).

Vụ thứ 10+11: Khoảng 10h ngày 23/4/2019 Lò Văn Thơ đến nhà Lò Văn Tiếp rủ Tiếp đi tìm trộm xe máy, Thơ nói với Tiếp: “Tao với mày đi tìm trộm xe để bán nữa đi, hết tiền tiêu rồi”, Tiếp đồng ý. Sau đó Thơ dùng xe máy DREAM II của Thơ chở Tiếp đi qua thị trấn Ít Ong vào khu vực ngã ba đường bản Piệng, xã Nậm Păm, huyện Mường La, Thơ và Tiếp nhìn thấy một chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSXWAVE màu trắng-tím, BKS 26L1-039.00 đang dựng ở lề đường không có người trông coi, Thơ nói: “Lấy xe này đi”, sau đó Thơ đưa xe máy của mình cho Tiếp điều khiển còn Thơ lấy trộm chiếc xe máy BKS 26L1-039.00 điều khiền thả trôi xuống dốc quay về thị trấn Ít Ong, Tiếp điều khiển xe của Thơ đi theo sau, đi được khoảng 500m thì dừng lại, Thơ tháo dây điện nối với ổ khóa và khởi động cho chiếc xe nổ máy, Thơ và Tiếp đem chiếc xe vừa trộm được về cất giấu tại khu nhà hoang ở bản Dạng cũ, thị trấn Ít Ong rồi ăn uống nghỉ ngơi tại nhà Lò Văn Tiếp. Đến khoảng 15h30 phút cùng ngày Thơ nói với Tiếp: “Hay là đi tìm trộm một con xe nữa đi”, Tiếp đồng ý. Thơ dùng xe máy của mình để chở Tiếp đến khu vực cổng Bệnh viện đa khoa huyện Mường La thì dừng lại, Thơ dựng xe ở vỉa hè rồi Thơ, Tiếp ngồi ở ghế đá quan sát. Đến khoảng 17h cùng ngày thì Thơ, Tiếp nhìn thấy một người phụ nữ đi chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen bạc, BKS 26B1-579.90 đến dựng gần chỗ Thơ, Tiếp đang ngồi rồi đi vào trong bệnh viện. Thơ chỉ vào chiếc xe của Thoại rồi nói với Tiếp: “Lấy luôn con xe này đi”, Tiếp đồng ý. Thơ dắt chiếc xe máy BKS 26B1-579.90 xuống đường 279D ngồi lên xe điều khiển thả trôi đến khu vực cổng Tòa án huyện Mường La thì dừng lại, Tiếp điều khiển xe của Thơ đi phía sau. Khi dừng lại Thơ lấy dây cao su buộc một đầu vào xe máy của Thơ, một đầu buộc vào xe máy vừa lấy trộm được để Tiếp điều khiển xe máy kéo Thơ cùng chiếc xe đã lấy trộm đi về bản Nà Tòng, thị trấn Ít Ong, khi đi đến đầu bản Nà Tòng thì dừng lại, Thơ tháo dây điện nối với ổ khóa điện rồi khởi động nổ máy chiếc xe BKS 26B1-579.90 rồi điều khiển chiếc xe cùng Tiếp đi ra đường thủy điện Sơn La, qua bản Dạng cũ đến bãi đất trống gần suối Chiến cất dấu. Sau đó Thơ, Tiếp đi về nhà Tiếp ở bản Dạng cũ. Đến khoảng 18h ngày 23/4/2019 Lò Văn Thơ gọi điện thoại cho Lường Văn Ngọc nói: “Tao lấy được hai xe, một xe WAVE RS màu đen, một xe WAVE RS màu trắng, mày gọi cậu mày đi”, Ngọc nói: “Lần này sao nhiều thế”, Thơ nói: “Mày cứ gọi cậu mày đi”, Ngọc đồng ý rồi gọi điện thoại báo cho Lò Văn Son biết. Sau khi Ngọc và Son trao đổi qua điện thoại xong thì Ngọc gọi điện thoại báo lại cho Thơ biết, Thơ bảo Ngọc đi cùng nên Ngọc đi xe máy của mình đến bản Dạng cũ gặp Thơ, Tiếp đang đứng đợi. Lò Văn Thơ, Lò Văn Tiếp, Lường Văn Ngọc cùng nhau đem 02 chiếc xe máy đến đường gần suối Huổi Ban ở bản Pết, xã Tạ Bú chờ. Còn Lò Văn Son bảo em trai là Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân đi cùng, Son dùng xe máy BKS 26B1-608.00 của mình chở Tuấn, Thuân đến điểm hẹn. Khi đến nơi thấy Thơ, Tiếp, Ngọc đang đứng đợi cùng 03 chiếc xe máy, Son hỏi: “Mấy xe này hội cháu lấy ở đâu?”, Thơ trả lời: “Một xe cháu lấy trộm ở Nặm Păm, một xe cháu lấy trộm trong thị trấn xuống”, Tuấn và Thuân nghe Son trao đổi mua bán xe nên biết là 2 chiếc xe do trộm cắp mà có, sau khi xem xét 2 chiếc xe xong Tuấn nói: “Hai xe này bán năm triệu thôi nhé”, Thơ nói: “Không được đâu, sáu triệu mới bán”, Tuấn, Thuân đồng ý nên góp mỗi người 3.000.000 đồng, tổng cộng là 6.000.000 đồng, Tuấn cầm tiền đưa cho Thơ, Thơ nhận tiền và giao chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSXWAVE màu trắng-tím, BKS 26L1-039.00 cho Tuấn và Thuân nhận chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen bạc, BKS 26B1-579.90. Sau khi mua được xe máy Son, Tuấn, Thuân cùng đi về. Còn Ngọc dùng xe máy của mình chở Thơ, Tiếp về bản Dạng cũ, thị trấn Ít Ong, tại đây Thơ chia tiền bán xe máy cho Ngọc 600.000 đồng, nhận tiền xong Ngọc đi về, số tiền này sau khi vụ án bị phát hiện Lường Văn Ngọc đã giao nộp cho cơ quan Điều tra, số tiền còn lại 5.400.000 đồng Lò Văn Thơ, Lò Văn Tiếp cùng nhau tiêu sài hết, Cơ quan điều tra Công an huyện Mường la đã thu giữ chiếc xe máy BKS 26L1-039.00 tại nhà Lò văn Tuấn, thu chiếc xe máy BKS 26B1-579.90 tại nhà Lò văn Thuân Ngày 25/4/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La kết luận chiếc xe máy của Vàng A Só có BKS 26L1-03900 ( số khung 4327BY499884; số máy C43E-6458291) có giá trị 8.000.000đ ( Tám triệu đồng ); chiếc xe máy của Vì Thị Thoại nhãn hiệu HONDA Wave RSX, BKS 26B1-579.90 (Số khung 572808; Số máy 4793798), trị giá 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng).

Ngày 25/4/2019 và ngày 22/5/2019 cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La ra Yêu cầu trưng cầu định giá tài sản số 18, 20 đối với 11 chiếc xe máy vật chứng vụ án.

Ngày 25/4/2019 và ngày 22/5/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện Mường La ban hành Bản kết luận định giá tài sản số 12 và 14 đối với 11 chiếc xe máy các bị cáo chiếm đoạt của những người bị hại có tổng giá trị: 109.500.000 đồng.

Ngày 23/7/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 18, hoàn trả 11 chiếc xe máy cho những người bị hại. Việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên cần chấp nhận.

Đối với Lò Văn Sen là người mua lại chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, BKS 26L1-040.79 từ Lò Văn Son, khi mua chiếc xe máy này Lò Văn Sen không biết đây là tài sản do Lò Văn Son phạm tội mà có, vì vậy Lò Văn Sen không vi phạm pháp luật hình sự.

Đối với bị cáo Lường Văn Ngọc, sau khi bị khởi tố và bắt tạm giam về tội Trộm cắp tài sản, đến ngày 31/7/2019 Lường Văn Ngọc đã ốm chết trong giai đoạn truy tố nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La đã ra Quyết định đình chỉ vụ án đối với Lường Văn Ngọc.

Đối với Lò Văn Thơ và Lò Văn Lăm sau khi vụ án bị phát hiện, cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La đã ra Quyết định khởi tố vụ án, nhưng Lò Văn Thơ và Lò Văn Lăm đã bỏ trốn khỏi địa phương, do hết thời hạn điều tra chưa bắt được nên cơ quan CSĐT Công an huyện Mường La đã tách Lò Văn Thơ và Lò Văn Lăm thành để xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại yêu cầu các bị cáo bồi thường chi phí sửa chữa xe máy do các bị cáo làm hư hỏng như sau:

1- Vì Thị Sơn yêu cầu bồi thường: 1.199.575 đồng (một triệu một trăm chín mươi chín nghìn năm trăm bẩy mươi năm đồng).

2- Lò Văn Hiểng, yêu cầu bồi thường: 5.420.000 đồng (năm triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng).

3- Kiều Ngọc Tuấn Vũ, yêu cầu bồi thường: 2.350.000 đồng (hai triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).

4- Ly A Phua, yêu cầu bồi thường: 1.337.861 đồng (Một triệu ba trăm ba mươi bẩy nghìn tám trăm sáu mươi mốt đồng).

5- Lò Văn Nam, yêu cầu bồi thường: 6.585.000 đồng (Sáu triệu năm trăm tám mươi năm nghìn đồng).

6- Mùa A Dênh, yêu cầu bồi thường: 2.372.166 đồng (Hai triệu ba trăm bẩy mươi hai nghìn một trăm sáu mươi sáu đồng).

7- Tòng Văn Hương, yêu cầu bồi thường: 1.930.000 đồng (Một triệu chín trăm ba mươi nghìn đồng).

8- Kiều Hoàng Minh, yêu cầu bồi thường: Toàn bộ giá trị chiếc xe máy như kết luận định giá tài sản do chiếc xe đã bị đốt cháy không còn giá trị sử dụng, số tiền: 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng).

9- Vàng A Só (Số), yêu cầu bồi thường: 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

10- Vì Thị Thoại, yêu cầu bồi thường: 1.878.834 đồng (Một triệu tám trăm bẩy mươi tám nghìn tám trăm ba mươi tư đồng).

11- Lò Chinh Thành, không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lò Văn Tiếp, Lò Văn Thủy, Quàng Văn Cường về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo Lò Văn Son về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo điểm c khoản 2 Điều 323 của Bộ luật Hình sự. Truy tố các bị cáo Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn Tiếp, Lò Văn Thủy, Quàng Văn Cường phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Các bị cáo Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời phạm tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn Tiếp từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn Thủy từ 12 đến 18 tháng tù giam.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51: Xử phạt Quàng Văn Cường từ 08 đến 12 tháng tù giam.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 323; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn Son từ 04 năm đến 05 năm tù giam.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn Tuấn từ 18 đến 24 tháng tù giam.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt Lò Văn Thuân từ 08 đến 14 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt Cà Văn Hồng từ 08 đến 14 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt Cà Văn Du từ 08 đến 14 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt Lò Văn Thời từ 08 đến 14 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Đề nghị trả tự do ngay tại phiên toà cho các bị cáo Lò Văn Thuân; Lò Văn Thời; Cà Văn Hồng; Cà Văn Du, nếu họ không bị tạm giam về tội phạm khác.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với các bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Toà cần xem xét buộc các bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tiền theo giá trị thiệt hại đã được xác định cho các bị hại. Và đề nghị truy thu sung nộp ngân sách Nhà nước đối với các số tiền do các bị cáo thực hiện tội phạm mà có, đã được xác định theo từng phần của từng bị cáo, hiện nay các bị cáo đã tiêu sài chưa thu hồi được.

Đối với vật chứng của vụ án đề nghị:

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, đã bị cháy hoàn toàn vỏ nhựa, số khung 3106EY053103, số máy JA31E0183900, xe có chìa khoá, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe. Đề nghị giao trả người bị hại Kiều Hoàng Minh.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, mầu sơn trắng xám đen, biển số 26B1-60800, số khung 692370, số máy 5153068, xe có chìa khoá và hai gương chiếu hậu, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe, là của bị cáo Lò Văn Son. Đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, mầu sơn xám bạc xanh, biển số 26B1-45340, số khung 016505, số máy 508223, xe có chìa khoá và một gương chiếu hậu dạng gương thấp bên trái, đầu xe, yếm xe bị vỡ, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe, là của ông Lò Văn Lả (bố bị cáo Lò Văn Thuỷ). Đề nghị giao trả cho người liên quan là Lò Văn Lả.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, mầu sơn trắng đen bạc, biển số 26L1-07603, số khung RLJA3901HY374703, số máy JA39E0375531, xe có chìa khoá và một gương chiếu hậu dạng gương thấp bên trái, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe, là tài sản chung của vợ chồng Lường Văn Ngọc, (đã chết) và Lò Thị Tân. Đề nghị giao trả cho người liên quan là Lò Thị Tân.

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu nâu bạc, nhãn hiệu SAMSUNG, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong, là của Lường Văn Ngọc, (đã chết). Đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu đỏ đen, nhãn hiệu OPPO, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong, là của bị cáo Lò Văn Tuấn. Đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu vàng trắng, nhãn hiệu OPPO, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong, là của bị cáo Lò Văn Son. Đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một điện thoại di động bàn phím cứng, mầu đỏ đen, nhãn hiệu ZIPMOBILE, số moden ZIP 15, số IMEL 846171821056964, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong, là của bị cáo Lò Văn Tiếp, không liên quan đến việc thực hiện tội phạm. Đề nghị giao trả cho bị cáo Lò Văn Tiếp.

- Ba tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mỗi tờ mệnh giá 200.000 đồng (thu giữ của Lường Văn Ngọc, đã chết). Đây là tiền Lường Văn Ngọc được Lò Văn Thơ (đang bỏ trốn) và bị cáo Lò Văn Tiếp chia phần khi bán hai xe máy cho bị cáo Tuấn và bị cáo Thuấn. Đề nghị tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí. Đề nghị buộc các bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, các bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo Lò Văn Son, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời, Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân khẳng định các bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Song đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, pháp luật Nhà nước và một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì các bị cáo là người dân tộc sống ở vùng điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời, Lò Văn Thuân mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, riêng bị cáo Cà Văn Du năm 2014 được Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La tặng Bằng khen vì đã có nhiều thành tích trong củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn, và bố bị của cáo được tặng thưởng huân chương chiến sỹ vẻ vang. Đối với các bị cáo Lò Văn Tuấn và Lò Văn Son đã tự nguyện nộp tiền bồi thường một phần thiệt hại, tích cực sửa chữa lỗi lầm. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo, vì các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định, tài sản không có giá trị lớn.

Lời nói sau cùng của các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tội danh: Từ tháng 01/2019 đến tháng 4/2019 các bị cáo Lò Văn Tiếp, Lò Văn Thủy, Quàng Văn Cường đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của người dân trong địa bàn huyện Mường La, lén lút lấy trộm xe máy của các người bị hại. Cụ thể: Bị cáo Lò Văn Tiếp lấy trộm 04 xe, có tổng giá trị là 45.000.000 đồng. Bị cáo Lò Văn Thuỷ lấy trộm 02 xe, có tổng giá trị là 23.000.000 đòng. Bị cáo Quàng Văn Cường lấy trộm 01 xe, có giá trị 8.000.000 đồng. Còn các bị cáo Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời mặc dù không hứa hẹn trước giữa các bị cáo với nhau, nhưng biết rõ tài sản do trộm cắp mà có, vì hám rẻ nên đã đồng ý mua lại xe máy, mục đích để sử dụng. Cụ thể: Bị cáo Lò Văn Son đã mua và gọi giới thiệu cho các bị cáo khác trong vụ án 11 xe máy, có tổng giá trị là 109.500.000 đồng. Bị cáo Lò Văn Tuấn đã mua và gọi giới thiệu cho các bị cáo khác trong vụ án 06 xe máy, có tổng giá trị là 63.000.000 đồng. Bị cáo Lò Văn Thuân đã mua để sử dụng 01 xe máy, có giá trị 13.000.000 đồng. Bị cáo Cà Văn Hồng đã mua để sử dụng 01 xe máy, có giá trị 8.000.000 đồng. Bị cáo Cà Văn Du đã mua để sử dụng 01 xe máy, có giá trị 9.000.000 đồng. Bị cáo Lò Văn Thời đã mua để sử dụng 01 xe máy, có giá trị 7.500.000 đồng.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản xác định hiện trường, vật chứng thu giữ, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của các bị cáo Lò Văn Tiếp, Lò Văn Thủy, Quàng Văn Cường đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự. Hành vi của các bị cáo Lò Văn Son, Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Khoản 1 Điều 173 quy định:

“ 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) …;

b) …;”

Điều 323 quy định:

“ 1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) ...;

b) ...;

c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

d) ...;

đ) ...”.

Các bị cáo đều là những người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, nhưng do hám lời bất chính nên các bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo Lò Văn Tiếp; Lò Văn Thuỷ; Lò Văn Tuấn là thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo Lò Văn Son là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo Lò Văn Thuân; Cà Văn Hồng; Cà Văn Du; Lò Văn Thời; Quàng Văn Cường là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng riêng đối với bị cáo Quàng Văn Cường được chính quyền địa phương đánh giá là nhân thân không tốt, có biểu hiện liên quan đến ma tuý (dương tính với ma tuý).

Hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương, gây bất bình, hoang mang trong quần chúng nhân dân.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Lò Văn Tiếp đã cùng Lò Văn Thơ thực hiện 04 vụ trộm cắp gồm 01 chiếc xe máy của Lò Văn Hiểng BKS 26B1-838.50, 01 xe máy của Lò Chinh Thành BKS 26L1-001.00, 01 xe máy của Vàng A Só (Vàng A Số) BKS 26L1-039.00, 01 xe máy của Vì Thị Thoại BKS 26B1-579.90 với tổng giá trị 45.000.000 đồng. Nên cần áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, và cần áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Không chấp nhận đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, vì bị cáo đã thực hiện tội phạm hai lần trở lên, nên không được coi là thực hiện tội phạm lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Bị cáo Lò Văn Thủy đã cùng Lò Văn Thơ thực hiện 02 vụ trộm cắp gồm: 01 chiếc xe máy của Kiều Ngọc Tuấn Vũ có BKS 28N1-3275, 01 xe máy của Kiều Hoàng Minh có BKS 26L1-040.79 với tổng giá trị 23.000.000 đồng. Nên cần áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, và cần áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Không chấp nhận đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, vì bị cáo đã thực hiện tội phạm hai lần trở lên, nên không được coi là thực hiện tội phạm lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Bị cáo Lò Văn Son đã mua và sử dụng 03 chiếc xe máy, giúp sức cho Lò Văn Tuấn, Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời tiêu thụ 8 chiếc xe máy do Lường Văn Ngọc, Lò Văn Thơ, Lò Văn Tiếp, Lò Văn Thủy, Quàng Văn Cường trộm cắp mà có, tổng trị giá 11 chiếc xe là 109.500.000 đồng. Nên Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và của người bào chữa cho bị cáo, cần áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, và cần áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện nộp tiền bồi thường một phần thiệt hại.

Bị cáo Lò Văn Tuấn đã mua và sử dụng 03 chiếc xe máy và cùng tham gia với Lò Văn Son, Lò Văn Thuân tiêu thụ 03 chiếc xe máy do Lường Văn Ngọc, Lò Văn Thơ, Lò Văn Thủy trộm cắp mà có, tổng trị giá 06 chiếc xe máy là 63.000.000 đồng. Nên Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và của người bào chữa cho bị cáo, cần áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, vì bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, và cần áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện nộp tiền bồi thường một phần thiệt hại. Không chấp nhận đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, vì bị cáo đã thực hiện tội phạm hai lần trở lên, nên không được coi là thực hiện tội phạm lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Đối với các bị cáo Lò Văn Thuân, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du, Lò Văn Thời, phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và của người bào chữa cho các bị cáo, áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì các bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Riêng bị cáo Cà Văn Du cần xem xét áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, vì bị cáo năm 2014 được Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La tặng Bằng khen vì đã có nhiều thành tích trong củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn, và bố bị của cáo được tặng thưởng huân chương chiến sỹ vẻ vang.

Bị cáo Quàng Văn Cường, phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo tự ra đầu thú tại cơ quan Công an huyện Mường La. Nhưng bị cáo Quàng Văn Cường được chính quyền địa phương đánh giá là nhân thân không tốt, có biểu hiện liên quan đến ma tuý, dương tính với ma tuý, ( tại phiên toà bị cáo thừa nhận là nghiện ma tuý).

[3] Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo: Các bị cáo không có sự bàn bạc với nhau về việc trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản phạm tội, các bị cáo thực hiện tội phạm độc lập, do đó không xác định về vai trò của từng bị cáo trong vụ án.

[4] Về hình phạt chính: Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt các bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm và nhân thân của từng bị cáo; các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo. Đảm bảo được điều kiện và thời gian để các bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Đối với các bị cáo Lò Văn Thuân, Lò Văn Thời, Cà Văn Hồng, Cà Văn Du: Về nhân thân, các bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần vi phạm này các bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Từ các căn cứ trên xét thấy các bị cáo có đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Khoản 5 Điều 323 cũng quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét điều kiện, hoàn cảnh của các bị cáo, các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, các bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và của người bào chữa cho các bị cáo, không áp dụng đối với các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà, các bị cáo, người bị hại, người liên quan tự thoả thuận bồi thường thiệt hại. Xét thấy đây là sự thoả thuận và hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, phù hợp với pháp luật. Toà cần xem xét chấp nhận, các bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tiền theo giá trị thiệt hại đã được xác định do các bên thoả thuận cho các bị hại. Và cần xem xét truy thu sung nộp ngân sách Nhà nước đối với các số tiền do các bị cáo thực hiện tội phạm mà có, đã được xác định theo từng phần của từng bị cáo, hiện nay các bị cáo đã tiêu sài chưa thu hồi được.

[7] Về vật chứng, tài sản tạm thu giữ của vụ án:

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, đã bị cháy hoàn toàn vỏ nhựa, số khung 3106EY053103, số máy JA31E0183900, xe có chìa khoá, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe. Là của người bị hại Kiều Hoàng Minh, bị các bị cáo chiếm đoạt và người có nghĩa vụ liên quan làm hư hỏng. Toà cần xem xét giao trả cho người bị hại định đoạt.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, mầu sơn trắng xám đen, biển số 26B1-60800, số khung 692370, số máy 5153068, xe có chìa khoá và hai gương chiếu hậu, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe. Là của bị cáo Lò Văn Son, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện đi lại để thực hiện tội phạm. Toà cần xem xét tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, mầu sơn xám bạc xanh, biển số 26B1-45340, số khung 016505, số máy 508223, xe có chìa khoá và một gương chiếu hậu dạng gương thấp bên trái, đầu xe, yếm xe bị vỡ, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe. Là ông Lò Văn Lả (bố của bị cáo Lò Văn Thuỷ), bị cáo Thuỷ đã tự ý sử dụng làm phương tiện đi lại để thực hiện tội phạm, ông Lò Văn Lả không biết. Toà cần xem xét giao trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Lò Văn Lả.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, mầu sơn trắng đen bạc, biển số 26L1-07603, số khung RLJA3901HY374703, số máy JA39E0375531, xe có chìa khoá và một gương chiếu hậu dạng gương thấp bên trái, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe. Là tài sản chung của vợ chồng Lường Văn Ngọc, (đã chết) và chị Lò Thị Tân, Lường Văn Ngọc đã sử dụng làm phương tiện đi lại để thực hiện tội phạm, chị Lò Thị Tân không biết. Toà cần xem xét giao trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Lò Thị Tân.

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu nâu bạc, nhãn hiệu SAMSUNG, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong. Là của Lường Văn Ngọc, (đã chết), Lường Văn Ngọc đã sử dụng làm phương tiện liên lạc để thực hiện tội phạm. Toà cần xem xét tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu đỏ đen, nhãn hiệu OPPO, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong. Là của bị cáo Lò Văn Tuấn, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện liên lạc để thực hiện tội phạm. Toà cần xem xét tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu vàng trắng, nhãn hiệu OPPO, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong. Là của bị cáo Lò Văn Son, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện liên lạc để thực hiện tội phạm. Toà cần xem xét tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

- Một điện thoại di động bàn phím cứng, mầu đỏ đen, nhãn hiệu ZIPMOBILE, số moden ZIP 15, số IMEL 846171821056964, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong. Là của bị cáo Lò Văn Tiếp, không liên quan đến việc thực hiện tội phạm của bị cáo. Toà cần xem xét giao trả cho bị cáo.

- Ba tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mỗi tờ mệnh giá 200.000 đồng (thu giữ của Lường Văn Ngọc, đã chết). Đây là tiền Lường Văn Ngọc được Lò Văn Thơ (đang bỏ trốn) và bị cáo Lò Văn Tiếp chia phần khi bán hai xe máy cho bị cáo Tuấn và bị cáo Thuấn. Toà cần xem xét tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật, người có nghĩ vụ liên quan đến vụ án phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

[9] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La; Kiểm sát viên, Người bào chữa cho bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đều hợp pháp.

Do vậy các bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lò Văn T, Lò Văn Th, Quàng Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Các bị cáo Lò Văn S, Lò Văn T, Lò Văn Thu, Cà Văn H, Cà Văn D, Lò Văn Th phạm tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 30 ( Ba mươi) tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lò Văn Th 15 ( Mười năm) tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 07/6/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn C 08 ( Tám) tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2019.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 323; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lò Văn S 36 ( Ba mươi sáu) tháng tù giam về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 ( Mười tám) tháng tù giam về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tung hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn Thu 12 ( Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 ( Hai mươi bốn) tháng về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn thử thách tính từ ngày 17/9/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tung hình sự.

- Xử phạt bị cáo Cà Văn H 10 ( Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 20 ( Hai mươi) tháng về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn thử thách tính từ ngày 17/9/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tung hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn Th 10 ( Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 20 ( Hai mươi) tháng về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn thử thách tính từ ngày 17/9/2019.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tung hình sự.

- Xử phạt bị cáo Cà Văn D 09 ( Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 ( Mười tám) tháng về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Thời hạn thử thách tính từ ngày 17/9/2019.

Trả tự do ngay tại phiên toà cho các bị cáo Lò Văn Th, Cà Văn H, Cà Văn D, Lò Văn Th nếu họ không bị tạm giam về tội phạm khác.

Giao các bị cáo Lò Văn Th, Cà Văn H, Cà Văn D, Lò Văn Th cho Ủy ban nhân dân xã Tạ Bú, huyện Mường La, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

“ Nếu trong thời gian thử thách người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự”

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584; 585; 589 Bộ luật dân sự.

Công nhận tự thoả thuận của các bị cáo; các người bị hại; người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại phiên toà. Các bị cáo; người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có trách nhiệm bồi thường cho các người bị hại cụ thể như sau:

Bị cáo Lò Văn S bồi thường cho các bị hại.

- Vì Thị Sơn, số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm nghìn đồng).

- Kiều Ngọc Tuấn Vũ, số tiền 2.350.000 đồng (Hai triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).

- Tòng Văn Hương, số tiền 2.430.000 đồng (Hai triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng).

Bị cáo Lò Văn T bồi thường cho các bị hại.

- Lò Văn Hiểng, số tiền 5.420.000 đồng (Năm triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng).

- Vàng A Só (Số), số tiền 6.500.000 đồng (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng).

Bị cáo Lò Văn Th, bồi thường cho bị hại Mùa A Dênh, số tiền 2.873.000 đồng (Hai triệu tám trăm bảy mươi ba nghìn đồng).

Bị cáo Lò Văn Thu, bồi thường cho bị hại Vì Thị Thoại, số tiền 1.880.000 đồng (Một triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng).

Bị cáo Cà Văn H, bồi thường cho bị hại Ly A Phua, số tiền 2.038.000 đồng (Hai triệu không trăm ba mươi tám nghìn đồng).

Bị cáo Cà Văn D, bồi thường cho bị hại Lò Văn Nam, số tiền 6.585.000 đồng (Sáu triệu năm trăm tám mươi năm nghìn đồng).

Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lò Văn Sen, bồi thường cho bị hại Kiều Hoàng Minh, số tiền 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng).

Truy thu sung nộp ngân sách Nhà nước đối với các bị cáo gồm các khoản tiền cụ thể như sau:

- Bị cáo Lò Văn T số tiền 2.050.000 đồng (Hai triệu không trăn năm mươi nghìn đồng), (tiền bán xe biển số 26B1-838.50 của Lò Văn Hiểng). Số tiền 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng), (tiền bán xe biển số 26L1- 001.00 của Lò Chinh Thành). Số tiền 2.700.000 đồng (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng), (tiền bán hai xe biển số 26L1-039.00 của Vàng A Só và xe biển số 26B1- 579.90 của Vì Thị Thoại). Tổng cộng số tiền là 5.850.000 đồng (Năm triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

- Bị cáo Quàng Văn C số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng), (tiền bán xe biển số 26B1-030.36 của Vì Thị Sơn).

- Bị cáo Lò Văn Thuỷ số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), (tiền bán xe biển số 28N1-3275 của Kiều Ngọc Tuấn Vũ). Số tiền 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng), (tiền bán xe biển số 26L1-040.79 của Kiều Hoàng Minh). Tổng cộng số tiền là 2.100.000 đồng (Hai triệu một trăm nghìn đồng).

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, được xử lý như sau:

Tuyên giao trả cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp gồm:

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, đã bị cháy hoàn toàn vỏ nhựa, số khung 3106EY053103, số máy JA31E0183900, xe có chìa khoá, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe. Giao trả cho người bị hại Kiều Hoàng Minh.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, mầu sơn trắng đen bạc, biển số 26L1-07603, số khung RLJA3901HY374703, số máy JA39E0375531, xe có chìa khoá và một gương chiếu hậu dạng gương thấp bên trái, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe (xe thu giữ của Lò Thị Tân). Giao trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lò Thị Tân.

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, mầu sơn xám bạc xanh, biển số 26B1-45340, số khung 016505, số máy 508223, xe có chìa khoá và một gương chiếu hậu dạng gương thấp bên trái, đầu xe, yếm xe bị vỡ, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe (xe thu giữ của bị cáo Lò Văn Thuỷ). Giao trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lò Văn Lả.

- Một điện thoại di động bàn phím cứng, mầu đỏ đen, nhãn hiệu ZIPMOBILE, số moden ZIP 15, số IMEL 846171821056964, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong (thu giữ của bị cáo Lò Văn Tiếp). Giao trả cho bị cáo Lò Văn Tiếp.

Tuyên tịch thu sung nộp vào ngân sách Nhà nước gồm:

- Một xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, mầu sơn trắng xám đen, biển số 26B1-60800, số khung 692370, số máy 5153068, xe có chìa khoá và hai gương chiếu hậu, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của xe (xe thu giữ của bị cáo Lò Văn Son).

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu nâu bạc, nhãn hiệu SAMSUNG, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong (thu giữ của Lường Văn Ngọc, đã chết).

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu đỏ đen, nhãn hiệu OPPO, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong (thu giữ của bị cáo Lò Văn Tuấn).

- Một điện thoại di động màn hình cảm ứng, mầu vàng trắng, nhãn hiệu OPPO, điẹn thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong (thu giữ của bị cáo Lò Văn Son).

- Ba tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, mỗi tờ mệnh giá 200.000 đồng (thu giữ của Lường Văn Ngọc, đã chết).

( Theo biên bản giao nhận vật chứng của vụ án, giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Mường La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường La)

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Bị cáo Lò Văn T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Lò Văn S phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Lò Văn T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Lò Văn Th phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Lò Văn Thu phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Lò Văn Th phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Cà Văn H phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Cà Văn D phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Bị cáo Quàng Văn C phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng, tổng cộng cả hai khoản án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

- Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lò Văn Sen phải chịu tiền án phí dân sự sự sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

“ Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:63/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về