Bản án 64/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2019/HSST ngày 05 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Anh T (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 11 tháng 02 năm 1996 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số X, đường Đ, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K, sinh năm 1969 và con bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1966; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/02/2019 đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Bảo H (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 15 tháng 8 năm 1995 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số Y, đường Đ, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Viết C1, sinh năm 1962 và con bà Trịnh Ngọc H, sinh năm 1964; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 06/9/2011 tại bản án số 25/2011/HSST bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích (đã được xóa án tích); bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/02/2019 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Chị Bùi Hà Mai H1, sinh năm 2002; vắng mặt.

-Người đại diện hợp pháp của bị hại Bùi Hà Mai H1: Bà Hà Thị D, sinh năm 1966; nơi cư trú: Số X1, ngõ Y1 (ngõ Y2 cũ) đường C1, khối H, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Văn K, sinh năm 1969; nơi cư trú: Số X, đường Đ, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

2. Anh Bùi Việt H2, sinh năm 1988; nơi cư trú: Số X2, đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H, sinh năm 1995 trú tại Số Y, đường Đ, phường C, thành phố L không có nghề nghiệp ổn định, ham chơi điện tử. Khoảng 15 giờ ngày 23/02/2019, Phạm Anh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, biển kiểm soát 12P1-192.39 chở Nguyễn Bảo H đến quán điện tử "K" tại địa chỉ Số X3 đường T, phường C, thành phố L chơi điện tử. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Phạm Anh T chơi hết tiền và cùng Nguyễn Bảo H đi về, khi ra đến cửa quán, Phạm Anh T thấy phía ngoài sân quán dựng chiếc xe đạp điện nhãn hiệu NIJIA của Bùi Hà Mai H1, sinh năm 2002 trú tại Số X1/Y2 (nay là ngõ Y1), đường C1, phường C, thành phố L. Phạm Anh T rủ Nguyễn Bảo H trộm cắp chiếc xe đạp điện của Bùi Hà Mai H1, Nguyễn Bảo H đồng ý. Sau khi quan sát, Nguyễn Bảo H dắt chiếc xe đạp điện ra ngoài đường rồi ngồi lên xe đạp điện, Phạm Anh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12P1 - 192.39 dùng chân đẩy phía sau chiếc xe đạp điện đi đến hiệu sửa xe ở khu vực cổng Trường trung học phổ thông H, phường C, thành phố L để thay khóa. Sau đó, Nguyễn Bảo H điều khiển xe đạp điện, Phạm Anh T điều khiển xe mô tô 12P1-192.39 cùng đi đến quán điện tử S gặp Bùi Việt H2, sinh năm 1988, trú tại Số X2 T, phường C, thành phố L cầm cố chiếc xe đạp điện cho Bùi Việt H2 lấy 2.000.000đ (hai triệu đồng), Nguyễn Bảo H và Phạm Anh T chia nhau mỗi người 1.000.000đ (một triệu đồng).

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, cùng ngày 23/02/2019 chị Bùi Hà Mai H1 đến Công an thành phố Lạng Sơn trình báo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã điều tra làm rõ hành vi phạm tội của Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H như đã nêu trên, số tiền cầm cố chiếc xe đạp điện Nguyễn Bảo H và Phạm Anh T đã chi tiêu hết.

Ti biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số 26/ĐGTSTT ngày 25/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng thành phố Lạng Sơn xác định chiếc xe đạp điện mà Nguyễn Bảo H và Phạm Anh T trộm cắp của chị Bùi Hà Mai H1 có giá trị 6.300.000đ (sáu triệu ba trăm nghìn đồng).

Tại Cơ quan Điều tra Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 70/CT-VKS, ngày 02/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H thừa nhận: Ngày 23/02/2019 Phạm Anh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, biển kiểm soát 12P1-192.39 chở Nguyễn Bảo H đến quán điện tử "K" tại địa chỉ Số X3 đường T, phường C, thành phố L chơi điện tử, sau khi thua tiền đi về, khi ra đến cửa quán thấy phía ngoài sân quán dựng chiếc xe đạp điện nhãn hiệu NIJIA, hai bị cáo rủ nhau thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe đạp điện, sau đó đem đi cầm cố chiếc xe được số tiền 2.000.000 đồng, chia nhau mỗi bị cáo 1.000.000 đồng, sử dụng đi chuộc điện thoại và tiêu sài cá nhân hết.

Ti phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại Bùi Hà Mai H1 là bà Hà Thị D trình bày: Ngày 23/02/2019 con gái bà bị mất chiếc xe đạp điện nhãn hiệu NIJIA màu đen xám, không biển kiểm soát, chiếc xe mua từ năm 2016 với giá hơn 9.000.000 đồng. Ngày 12/3/2019 bà đã được Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn trả cho bà chiếc xe đạp điện nhãn hiệu NIJIA, bà đề nghị Hội đồng xét xử, giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo.

Ti phiên tòa ông Phạm Văn K trình bày: Gia đình ông có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 12P1- 192.39, đứng tên đăng ký quyền sở hữu tên tôi là Phạm Văn K, chiếc xe này gia đình ông sử dụng chung, ngày 23/02/2019 ông đi ăn cưới ở huyện B không ở nhà nên ông không biết Phạm Anh T đã sử dụng chiếc xe mô tô vào việc phạm tội. Ngày 12/3/2019 ông đã được Cơ quan điều tra trả lại chiếc xe mô tô.

Ti Cơ quan điều tra anh Bùi Việt H2 khai: Khoảng 18 giờ ngày 23/02/2019, anh đang ở trong quán điện tử S thì có H nhà ở đường Đ đi một chiếc xe đạp điện đến quán, đằng sau là một nam thanh niên anh không biết tên đi xe máy dạng Wave màu đỏ đen. Sau đó H dựng xe trước quán và đi bộ một mình vào gặp anh, H bảo với anh là xe đạp điện ngoài cửa là của mẹ H, bị rơi chìa khóa và xin cầm cố chiếc xe giá 2.000.000 đồng, hẹn sang đầu tháng 3/2019 sẽ lấy xe, anh đã đưa cho H 2.000.000 đồng. Anh không biết chiếc xe đạp điện là tài sản do Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H phạm tội mà có nên anh đã tự nguyện giao nộp chiếc xe cho Công an để làm rõ sự việc. Trong đơn xin xét xử vắng mặt, anh yêu cầu các bị cáo trả lại cho anh số tiền 2.000.000 đồng.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Anh T, Nguyễn Bảo H phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Anh T mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, Điều 51; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo H mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo không có điều kiện thi hành.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xác nhận ngày 12/3/2019 Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả cho bà Hà Thị D (là mẹ đẻ chị Bùi Hà Mai H1) 01 chiếc xe đạp điện hiệu NIJIA, màu sơn đen (không có biển kiểm soát) và trả cho ông Phạm Văn K 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen xám biển kiểm soát 12P1-192.39, kèm giấy đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Văn K.

Tch thu để sung công quỹ Nhà nước đối với số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng) thu giữ của Nguyễn Bảo H.

Đi với 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Phạm Anh T và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar B221 màu đen, số Imei 3522210280200877 lắp sim số 0387662074 thu giữ của Phạm Anh T; 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Bảo H và 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphon5S màn hình vỡ, số Imei 352086077895830 thu giữ của Nguyễn Bảo H không liên quan đến việc phạm tội, trả lại cho các bị cáo.

Về phần dân sự: Các bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H có trách nhiệm bồi thường cho anh Bùi Việt H2 số tiền 2.000.000 đồng. Ngày 01/4/2019 gia đình các bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H đã khắc phục hậu quả, mỗi gia đình bị cáo đã nộp số tiền 1.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

c bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn. Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về chứng cứ tài liệu trong vụ án được thu thập, bảo quản đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Anh T, Nguyễn Bảo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với biên bản sự việc, vật chứng đã thu giữ và phù hợp với các lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Phạm Anh T, Nguyễn Bảo H phạm tội Trộm cắp tài sản. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với các bị cáo Phạm Anh T, Nguyễn Bảo H là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, hành vi đó làm mất trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân tại địa phương. Trong vụ án này các bị cáo đồng phạm giản đơn, nhận thức được việc trộm cắp chiếc xe đạp điện của chị Bùi Hà Mai H1 giá trị 6.300.000 đồng đem cầm cố lấy tiền tiêu sài là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, vì vậy đối với hành vi của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên cần xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của các bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát.

[5] Xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo Nguyễn Bảo H là người có nhân thân xấu. Tại cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều thành khẩn khai báo nên các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tại phiên toà người đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; bị cáo Phạm Anh T sau khi sự việc xảy ra đã đến cơ quan công an đầu thú, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Bùi Việt H2 (mỗi gia đình bị cáo đã nộp 1.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn) nên các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Từ những phân tích như trên Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử phạt các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng để thi hành.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Phạm Anh T và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar B221 màu đen, số Imei 3522210280200877 lắp sim số 0387662074 thu giữ của Phạm Anh T; 01 (một) chứng minh thư nhân dân mang tên Nguyễn Bảo H và 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphon5S màn hình vỡ, số Imei 352086077895830 thu giữ của Nguyễn Bảo H, không liên quan đến việc phạm tội, trả lại cho các bị cáo. Đối với số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng) thu giữ của Nguyễn Bảo H, liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu để sung công quỹ Nhà nước.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với chiếc xe đạp điện nhãn hiệu NIJIA màu sơn đen (không có biển kiểm soát) của chị Bùi Hà Mai H1, ngày 12/3/2019 Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe trên cho bà Hà Thị D (là mẹ của chị Bùi Hà Mai H1), do đó Hội đồng xét xử chỉ cần xác nhận.

[10] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 12P1-192.39, qua điều tra xác định chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu của ông Phạm Văn K (bố đẻ của bị cáo Phạm Anh T). Ông Phạm Văn K không biết Phạm Anh T sử dụng chiếc xe mô tô trên vào việc phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả cho ông Phạm Văn K là chủ sở hữu, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[11] Đối với anh Bùi Việt H2, do không biết chiếc xe đạp điện nêu trên là tài sản do Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H phạm tội mà có, Cơ quan điều tra không xử lý Phạm Việt Hưng trong vụ án này nên Hội đồng xét xử cũng không đề cập xử lý.

[12] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; các bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Anh T 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 24/02/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo H 09 (chín) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 24/02/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H có trách nhiệm bồi thường cho anh Bùi Việt H2 số tiền 2.000.000 đồng. Xác nhận ngày 01/4/2019 gia đình bị cáo Phạm Anh T đã khắc phục hậu quả nộp số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) theo biên lai thu tiền AA/2015/0003165 và gia đình bị cáo Nguyễn Bảo H đã khắc phục hậu quả nộp số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) theo biên lai thu tiền AA/2015/0003164 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

4. Xử lý vật chứng:

- Xác nhận ngày 12/3/2019 Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã trả cho bà Hà Thị D (là mẹ đẻ của chị Bùi Hà Mai H1) 01 chiếc xe đạp điện hiệu NIJIA, màu sơn đen (không có biển kiểm soát) cho chủ sở hữu.

- Tịch thu để sung công quỹ Nhà nước tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng).

- Trả cho bị cáo Phạm Anh T 01 (một) Chứng minh thư nhân dân số 082242602 và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar B221 màu đen, số Imei 3522210280200877 kèm sim số 0387662074.

- Trả cho bị cáo Nguyễn Bảo H 01 (một) Chứng minh thư nhân dân số 082250218 và 01(một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphon5S màn hình vỡ, số Imei 352086077895830.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng và giấy ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Lạng Sơn cùng ngày 05/4/2019).

5. Án phí: Buộc các bị cáo Phạm Anh T và Nguyễn Bảo H, mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại chị Bùi Hà Mai H1, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Bùi Việt H2 vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:64/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về