Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 65/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 165/2019/TLST-HNGĐ ngày 08/7/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân gia đìnhtheo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 52/2019/QĐST-HNGĐ ngày 09/10/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Ban Thị T, sinh năm 1985.

* Bị đơn: Anh Đỗ Văn H, sinh năm 1985.

Đu có địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình tố tụng tại Tòa án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn - chị Ban Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đỗ Văn H tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn với nhau, được Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình đăng ký kết hôn vào ngày 26 tháng 3 năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại gia đình nhà anh H ở Thôn A, xã N được khoảng một tháng thì cả hai vợ chồng đều đi học tập ở nước ngoài nhưng mỗi người một nơi. Đến năm 2013 thì vợ chồng mới thực sự về chung sống với nhau thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn ngay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không có công ăn việc làm ổn định nên không có thu nhập nhưng anh H có nhiều tật xấu như nghiện ma túy, ham chơi lô đề, cờ bạc và chị mới được biết là anh H đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy vào năm 2007 nên chị không thể chấp nhận được. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên gay gắt và thường xuyên nên đến tháng 8 năm 2018 thì chị và anh chính thức sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay lại chung sống với nhau được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Chị và anh H hai con chung là Đỗ Nhật V, sinh ngày 17/10/2012 và Đỗ Nhật H, sinh ngày 12/10/2015, hiện cả hai con đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Nguyện vọng của chị sau khi ly hôn là muốn được tiếp tục nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung: Chị và anh H không có tài sản gì chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ.

Trong quá trình tố tụng tại Tòa án bị đơn - anh Đỗ Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Ban Thị T kết hôn với nhau là tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T vào ngày 26/3/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được đến đầu năm 2019. Vợ chồng chính thức sống ly thân chỉ mới được thời gian ngắn nên nay chị T có đơn xin ly hôn anh, quan điểm của anh là không đồng ý ly hôn chị Thu vì anh vẫn còn tình cảm với chị T.

Về quan hệ con chung: Anh và chị T có hai con chung là Đỗ Nhật V, sinh ngày 17/10/2012 và Đỗ Nhật H, sinh ngày 12/10/2015, hiện cả hai con đang do chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Tại bản tự khai quan điểm của anh nếu việc ly hôn xảy ra thì anh co nguyện vọng được nuôi con H và nhường con V cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Tuy nhiên tại biên bản hòa giải và biên bản phiên họp quan điểm của anh là nếu bắt buộc phải ly hôn thì anh đồng ý nhường cả hai con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng vì hiện tại cả hai con đang học tập và sinh hoạt ổn định cùng chị T nên anh không muốn tách hai con ra nữa.

Về quan hệ tài sản chung: Anh và chị T không có tài sản gì chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các biên bản lấy lời khai ngày 21/9/2019 của ông Đỗ Văn H là bố đẻ anh Đỗ Văn H, trú tại Thôn A, xã N, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, ông H trình bày: Anh H và chị T tự nguyện kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình vào năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình nhà ông ở xã N một thời gian thì hai vợ chồng chung sống cùng nhau ở Hà Nội, anh H có tính ham chơi lô đề nên vợ chồng dẫn đến mâu thuẫn. Quá trình chung sống anh H và chị T có 02 con chung là Đỗ Nhật V, sinh ngày 17/10/2012 và Đỗ Nhật H, sinh ngày 12/10/2015, hiện cả hai con đang do chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện tại anh H mới đi làm cho người bạn thân nhưng làm gì và ở đâu thì ông không biết. Ngày 02/9/2019 anh H có về thăm gia đình nhưng cũng không nói cho gia đình biết là hiện tại đang làm gì và ở đâu. Nay chị T có đơn xin ly hôn anh H và xin tiếp tục nuôi cả hai con chung, quan điểm của ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản xác minh ngày 21 tháng 9 năm 2019 UBND xã N, huyện Tiền Hải cung cấp như sau: Anh Đỗ Văn H và chị Ban Thị T tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình vào ngày 26/3/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng gia đình anh H ở Thôn A, xã N sau đó chuyển lên Hà Nội sinh sống nhưng thường xuyên vê địa phương. Quá trình chung sống anh H và chị T có xảy ra mâu thuẫn gì, nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể giữa anh H và chị T như thế nào thì địa phương không rõ. Chị T và anh H có có 02 con chung là Đỗ Nhật V, sinh ngày 17/10/2012 và Đỗ Nhật H, sinh ngày 12/10/2015. Về tài sản chung và nợ chung của anh H và chị T địa phương không nắm được. Hiện tại anh H không có mặt tại địa phương, anh H làm gì và ở đâu thì địa phương không biết chỉ thấy anh H vẫn thường xuyên về địa phương thăm gia đình. Nay chị T có đơn xin ly hôn anh H và xin tiếp tục nuôi cả hai con chung, quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, nguyên đơn là chị Thu, đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh H không thực hiện đầy đủ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Ban Thị T được ly hôn anh Đỗ Văn H.

Về quan hệ con chung: Giao hai con chung Đỗ Nhật V, sinh ngày 17/10/2012 và Đỗ Nhật H, sinh ngày 12/10/2015 cho chị Ban Thị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Xét thấy nguyên đơn là chị Ban Thị T khởi kiện xin ly hôn anh Đỗ Văn H. Anh H có địa chỉ thường trú tại Thôn A, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã thụ lý và giải quyết yêu cầu của chị T là đúng thẩm quyền.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Ban Thị T và anh Đỗ Văn H tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình vào ngày 26/3/2019 xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh H và chị T thực sự chung sống với nhau thời gian không nhiều nhưng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do anh H không tu chí làm ăn ham chơi. Hiện tại thì anh H và chị T không còn chung sống với nhau nữa, chị T không biết anh H hiện đang ở đâu và làm gì. Điều này chứng tỏ vợ chồng không còn sự quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị T có đơn xin ly hôn anh H, mặc dù anh H không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp để vợ chồng về chung sống với nhau mà lại bỏ đi làm ăn không cho chị T biết anh đang làm gì ở đâu. Từ những tình tiết nói trên có đủ căn cứ để khẳng định tình trạng hôn nhân của chị T và anh H đã trầm trọng, đời sống chung thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị T, xử cho chị T được ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Xét thấy cả hai con chung Đỗ Nhật V, sinh ngày 17/10/2012 và Đỗ Nhật H, sinh ngày 12/10/2015 hiện đều do chị Thu trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị T có nguyện vọng tiếp tục được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Anh H hiện không chung sống cùng chị T và các con, anh đang làm ăn ở xa nên anh H không có điều kiện trực tiếp, chăm sóc và giáo dục con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận nguyện vọng của chị T, giao cả hai con cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Không có Về án phí: Chị Ban Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ban Thị T được ly hôn anh Đỗ Văn H.

2.Về con chung: Giao hai con chung Đỗ Nhật V, sinh ngày 17/10/2012 và Đỗ Nhật H, sinh ngày 12/10/2015 chị Ban Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận việc chị T không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị nên việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết. Khi nào đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án dận sự khác.

3. Về tài sản chung: Không có

4. Về án phí: Chị Ban Thị T phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 (ba trăm ngàn)đồng chị T đã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0009142 ngày 08/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải thành án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Ban Thị T quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 25 tháng 10 năm 2019, anh Đỗ Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:65/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về