Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 65/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 123/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lý Văn H; sinh năm: 1984; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá.

- Bị đơn: Chị Đinh Thị Thu D; sinh năm: 1983; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá.

Tại phiên toà có mặt anh H, chị D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 03/6/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Lý Văn H trình bày: Anh và chị Đinh Thị Thu D kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 18/02/2008 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận được đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng nhiều quan điểm sống thường xuyên cãi nhau. Gia đình hai bên đã hòa giải nhiều lần nhưng tình trạng hôn nhân vẫn không cải thiện được. Đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên anh yêu cầu Toà án giải quyết cho anh được ly hôn chị D.

Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lý Gia L, sinh ngày 28/9/2012 và cháu Lý An N, sinh ngày 10/8/2015. Ly hôn, anh yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lý Gia L, giao cháu Lý An N cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Tại phiên tòa hôm nay, anh H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, giao cháu L cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản: Anh H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, bị đơn chị Đinh Thị Thu D đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn và trình bày:

Về hôn nhân: Về ngày kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như nguyên đơn trình bày. Sau khi kết hôn vợ, chồng chung sống với nhau được một thời gian hạnh phúc thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ, chồng không hợp, vợ chồng bất đồng nhiều quan điểm sống. Chị và anh H đã sống ly thân từ năm 2015. Đến nay chị xác định tình cảm vợ, chồng không còn, nên chị đồng ý ly hôn với anh H.

Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lý Gia L, sinh ngày 28/9/2012 và cháu Lý An N, sinh ngày 10/8/2015. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lý An N, giao cháu Lý Gia L cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản: Chị D không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, chị D không đồng ý ly hôn với anh H; Về con cái, chị đồng ý với ý kiến của anh H, chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu N.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS); người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình: Xử cho anh Lý Văn H được ly hôn chị Đinh Thị Thu D. Giao cháu Lý Gia L, sinh ngày 28/9/2012 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Lý An N, sinh ngày 10/8/2015 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng như Viện kiểm sát được biết.

[2]. Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho các đương sự nhưng chị D không có mặt. Do đó, Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt chị D và đã thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho chị D theo quy định tại khoản 3 Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự ( Viết tắt là BLTTDS).

[3]. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ chị D đến phiên hoà giải hai lần nhưng chị D đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

[4] Về hôn nhân: Anh Lý Văn H và chị Đinh Thị Thu D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 18/02/2008 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh H và chị D đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay, việc này cả anh H và chị D đều xác nhận. Điều đó chứng tỏ anh H, chị D đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Nghĩ nên căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho anh H được ly hôn chị D.

[3] Về con cái: Anh H và chị D có 02 con chung. Anh H và chị D đều thống nhất, anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu N còn chị D trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Xét nguyện vọng của hai bên là chính đáng nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định về mọi mặt cho các con. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của anh H và chị D, giao cháu Lý Gia L cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Lý An N cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[4] Về tài sản: Anh H và chị D không yêu cầu nên miễn xét.

[5] Về án phí: Anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Lý Văn H được ly hôn chị Đinh Thị Thu D.

2. Về con cái: Giao cháu Lý Gia L, sinh ngày 28/9/2012 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Lý An N, sinh ngày 10/8/2015 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Anh H, chị D có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Lý Văn H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền anh đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành, theo biên lai số AA/2016/0003668 ngày 07/6/2019. Anh H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt anh H, chị D. Anh H, chị D có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:65/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về