Bản án 65/2019/HS-ST ngày 06/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 06/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 6 năm 2019, tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2018/TLST-HS ngày 09/5/2019, theo Quyết định đưa vụ án xét xử số 61/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 01/10/1975. Nơi đăng ký NKTT, chỗ ở: Thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Hưng Yên. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: Không biết chữ. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn V (đã chết) và bà Đỗ Thị T1. Vợ là Hoàng Thị K. Có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2003. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt khẩn cấp ngày 03/3/2019, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/3/2019. Bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt.

- Bị hại:

1. Chị Bùi Thị Th, sinh năm 1980. Địa chỉ: Thôn 1, xã C, huyện Th1, thành phố Hải Phòng, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2.Chị Hoàng Thị Kim O, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn Q, xã V, huyện KX, tỉnh Thái Bình, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt)

3.Chị Phùng Thị Kim D, sinh năm 2000. Địa chỉ: Thôn M, phường KQ, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt - Người làm chứng:

1. Ông Trương Công Đ, sinh năm 1967. Địa chỉ: Tổ 26, khu 7, phường QT, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt

- Người chứng kiến: Chị Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1988. Địa chỉ: Tổ 4, khu B 1, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 03/3/2019, bị cáo Nguyễn Văn T từ nhà đi lễ chùa Yên Tử thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 08 giờ cùng ngày, bị cáo đi đến chùa Hoa Yên thuộc chùa Yên Tử, thì nhìn thấy chị Bùi Thị Th đang đứng lễ bái tại sân trước cửa chùa Hoa Yên, trong túi quần phía trước bên phải của chị Th có 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu hồng, lộ ra ngoài một phần. Thấy vậy, bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại của chị Thanh. Bị cáo tiến lại gần, lợi dụng chị Th đang mải mê lễ bái và xung quanh có đông người, bị cáo dùng tay phải trộm cắp chiếc điện thoại trong túi của chị Th rồi bỏ đi. Do thấy việc trộm cắp tài sản dễ dàng, bị cáo di chuyển lên khu vực chùa Đồng- Yên Tử, quan sát có du khách nào sơ hở để tiếp tục trộm cắp điện thoại. Khoảng 10 giờ cùng ngày, bị cáo phát hiện thấy chị Hoàng Thị Kim O đang đi bộ ở đoạn đường bậc đá gần đến chùa Đồng, trong túi áo khoác có 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J2, màu vàng, bị cáo liền tiếp cận, đi sát bên phải của chị O, lợi dụng đông người và chị O không để ý, bị cáo dùng tay phải trộm cắp chiếc điện thoại của chị O rồi tiếp tục di chuyển lên đỉnh chùa Đồng. Khoảng 10 phút sau, khi bị cáo đến nơi, bị cáo quan sát thấy chị Phùng Thị Kim D đang đứng phía bên phải của chùa Đồng, trong túi quần phía trước bên phải của chị D có để 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7, màu hồng, một phần lộ ra ngoài. Bị cáo tiến lại gần từ phía sau bên phải của chị D, lợi dụng chị D sơ hở, bị cáo dùng tay phải trộm cắp chiếc điện thoại của chị D rồi bỏ đi, thì bị nhân viên Ban quản lý di tích Yên Tử phát hiện và báo cho lực lượng Công an hình sự thành phố Uông Bí. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo bị Tổ công tác đội cảnh sát hình sự công an thành phố Uông Bí kiểm tra hành chính, thu giữ 03 (ba) chiếc điện thoại bị cáo đã trộm cắp nêu trên. Ngoài ra còn thu giữ của bị cáo 01 (một) chiếc điện thoại Q-mobile, 01 (một) ví giả da màu đen và số tiền 2.350.000đ (hai triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 04 ngày 06/3/2019 của Hội đồng định gía tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Uông Bí kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7, màu hồng, đã qua sử dụng, có giá trị: 5.000.000đ (năm triệu đồng); 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy J2 màu vàng, đã qua sử dụng, có giá trị 1.000.000đ (một triệu đồng) và 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 màu hồng, đã qua sử dụng, có giá trị 1.700.000đ (một triệu, bảy trăm nghìn đồng). Tổng trị gía 03 (ba) chiếc điện thoại nêu trên là: 7.700.000đ (bảy triệu, bảy trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có lời khai giống như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khai cả 03 (ba) chiếc điện thoại sau khi trộm cắp được, bị cáo đều tháo sim liên lạc vứt đi.

- Lời khai của các bị hại:

Chị Bùi Thị Th khai: Sáng ngày 03/3/2019, chị cùng gia đình đi tham quan lễ chùa Yên Tử, thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày thì đến chùa, chị cùng gia đình đi bộ để đến chùa Hoa Yên. Chị vào chùa đặt lễ rồi ra ngoài sân thắp hương chắp tay cầu khấn trước cửa chùa, sau đó chị đứng ở sân chùa vãn cảnh. Chị lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, màu hồng của mình để trong túi quần bò phía trước bên phải ra để sử dụng thì không thấy điện thoại đâu nữa. Biết bị kẻ giam móc trộm điện thoại, đến trưa cùng ngày, chị đến Trạm công an Yên Tử thuộc Công an thành phố Uông Bí trình báo nội dung bị mất điện thoại như trên.

Chị Hoàng Thị Kim O khai: Sáng ngày 03/3/2019, chị cùng bạn bè đi lễ chùa Yên Tử. Chị cùng đoàn đi theo đường cáp treo đến chùa Hoa Yên, lễ chùa ở đây xong rồi tiếp tục đi đường cáp treo đến chùa Đồng. Trên đường đi đến chùa Đồng, do thời tiết nắng nóng chị cởi áo khoác ngoài ra buộc ngang người và có để chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sansung Galaxy J2, màu vàng trong túi áo khoác bên phải của mình. Khi đến gần đỉnh chùa, chị lấy điện thoại ra để chụp ảnh thì phát hiện chiếc điện thoại của mình bị mất. Sau đó chị đến Trạm công an Yên Tử, thuộc Công an thành phố Uông Bí trình báo toàn bộ nội dung trên.

Chị Phùng Thị Kim D khai: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 03/3/2019, chị cùng một số người đi đến chùa Yên Tử để tham quan lễ chùa. Chị cùng đoàn người đi theo đường cáp treo đến chùa Hoa Yên lễ chùa, rồi tiếp tục đi theo đường cáp treo đến chùa Đồng. Trên đường đi đến chùa Đồng, chị có sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 của mình để chụp ảnh, sau đó cất vào túi quần bò bên phải của mình. Khi đến đỉnh chùa Đồng, chị vào đặt lễ cúng bái, rồi đi ra phía chuông chùa Đồng. Một lúc sau, chị lấy điện thoại ra để chụp ảnh thì phát hiện ra chiếc điện thoại của mình bị mất. Trên đường đi về, chị đến Trạm công an Yên Tử thuộc Công an thành phố Uông Bí để trình báo toàn bộ nội dung trên.

- Lời khai của người làm chứng: Ông Trương Công Đ khai: Khoảng 10 giờ ngày 03/3/2019, ông đang làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự tại chuông chùa Đồng - Yên Tử thì thấy một người đàn ông mặc áo đỏ (sau này biết là bị cáo) đang có hành vi dùng tay lấy trộm của một chị phụ nữ một chiếc điện thoại di động chị này để trong túi quần bên phải. Lấy được điện thoại, bị cáo nhanh chóng bỏ đi lẫn vào đám đông. Ông liền theo dõi bị cáo một lúc rồi trình báo tổ công tác của Công an thành phố Uông Bí đang làm nhiệm vụ tại chùa Yên Tử. Sau đó tổ công tác tiến hành kiểm tra bị cáo, bị cáo thừa nhận đã lấy trộm được 01 (một) chiếc điện thoại tại chùa Hoa Yên và 02 (hai) chiếc điện thoại tại chùa Đồng.

- Lời khai của người chứng kiến: Chị Nguyễn Ngọc L khai: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 03/3/2019, chị được chứng kiến việc Công an thành phố Uông Bí kiểm tra hành chính đối với bị cáo, phát hiện trong người bị cáo có 03 (ba) chiếc điện thoại di động bị cáo thừa nhận lấy trộm của người khác, trong đó có 01 (một) chếc lấy trộm tại chùa Hoa Yên và 02 (hai) chiếc lấy trộm tại chùa Đồng.

Bản cáo trạng số 62/CT-VKSUB ngày 06/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Trần Văn Tuyên về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm truy tố với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi tư) tháng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: trả lại bị cáo số tiền 2.350.000đ, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có lời khai phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khẳng định việc truy tố đối với bị cáo là đúng; không oan, sai. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại, của người làm chứng, người chứng kiến về thời gian, địa điểm, cách thức thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, phù hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản kiểm tra hành chính, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường (BL 49- 54); bản ảnh hiện trường (BL 55- 67), bản ảnh thực nghiệm điều tra (BL 43- 48), bản ảnh vật chứng (BL 68- 72) và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 08 giờ đến 10 giờ ngày 03/3/2019, tại khu vực chùa Hoa Yên và khu vực chùa Đồng thuộc chùa Yên Tử, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7 của chị Bùi Thị Thanh, có giá trị: 5.000.000đ (năm triệu đồng); 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy J2 của chị Hoàng Thị Kim Oanh, có giá trị: 1.000.000đ (một triệu đồng) và 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 của chị Phùng Thị Kim Dung, có giá trị: 1.700.000đ (một triệu, bảy trăm nghìn đồng). Tổng trị gía tài sản bị cáo trộm cắp là: 7.700.000đ (bảy triệu, bảy trăm nghìn đồng).

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác là khách thể được pháp luật nhà nước ta bảo vệ. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do lòng tham trước sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của người khác nơi đông người, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, mục đích bán lấy tiền tiêu xài cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung; đáp ứng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo; tài sản trộm cắp đã kịp thời thu hồi trả lại cho người bị hại, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo có nhân thân tốt; chưa tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng; trình độ nhận thức pháp luật hạn chế; hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, cho bị cáo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình cũng đảm bảo cải tạo bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội.

[6] Về vật chứng: 01 (một) ví giả da màu đen và 01 (một) chiếc điện thoại Q- mobile thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo; 03 (ba) chiếc điện thoại bị cáo trộm cắp của các bị hại chị Bùi Thị Thanh, chị Hoàng Thị Kim O và chị Phùng Thị Kim Dung; cơ quan điều tra đã trả lại cho các bị hại, nên không đề cập xem xét. Số tiền 2.350.000đ (hai triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên không đề cập xem xét.

[8] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, kết hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 2.350.000đ (hai triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng), nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 06/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về