Bản án 65/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Công T, sinh ngày 16 tháng 10 năm 1995. Nơi cư trú: xóm 6, xã Đại Sơn, huyện Đô lương, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Công Hùng, sinh năm 1952; Con bà: Nguyễn Thị Hiệu, sinh năm: 1954; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 23/5/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”; Hiện tại ngoại có mặt tại phiên toà.

*Người bị hại:

1. Anh Nguyễn Duy Mai, sinh năm 1975.

Trú tại: Xóm 4, xã Lạc Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. (có mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Tài, sinh năm 1987.

Trú tại: Xóm 02, xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. (có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Chu Quang An, sinh năm 1977.

Trú tại: Xóm 9, xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. (vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Khắc Thắng, sinh năm 1969.

Trú tại: Xóm 7, xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. (có mặt)

* Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị Sáng, sinh năm 1963.

Trú tại: Xóm 6, xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. (vắng mặt)

2. Bà Phan Thị Diên, sinh năm 1965.

Trú tại: Xóm 4, xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hành vi thứ nhất: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20/2/2019, Nguyễn Công T sinh năm 1995, trú tại xóm 6 xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đi chơi ở xã Nghi Kiểu, huyện Nghi Lộc, rồi xin xe của một người đi đường về đến ngã tư xã Đại Sơn giao giữa đường N5 thuộc xóm 6 xã Đại Sơn, huyện Đô Lương thì xuống xe. Sau khi xuống xe T phát hiện có một chiếc xe mô tô hãng Yamaha, nhãn hiệu Jupiter Gravita, sơn màu đen bạc BKS 37Z9-5437 của anh Nguyễn Duy Mai, sinh năm 1975, trú tại xóm 4, xã Lạc Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An dựng trước quán nước mía bà Nguyễn Thị Sáng có chồng tên Mỵ. Quan sát không thấy ai nên T đi đến xe máy rồi gọi to mấy tiếng “có ai không”, nhưng không có ai trả lời. Nên T đã dắt chiếc xe máy đến quán Thảo Nguyệt gần đó để cắt chìa khóa xe. Sau khi cắt chiếc xe máy T đã sử dụng chiếc xe đó làm phương tiện đi lại. Về phía bị hại, anh Nguyễn Duy Mai là người thường xuyên gửi xe máy ở nhà con gái nhà bà Nguyễn Thị Sáng cách chỗ quán nhà bà Sáng khoảng 50 mét. Nhưng hôm đó do vội vàng có xe buýt đến nên đã bỏ xe ở quán của bà Sáng nhờ bà Sáng cất hộ bà Sáng đã đồng ý, nhưng bà Sáng không nhớ nên không cất hộ xe. Ngày hôm sau khi anh Nguyễn Duy Mai đến nhà bà Sáng để lấy xe thì mới biết xe đã bị người khác lấy trộm. Vợ chồng bà Sáng và anh Mai đã đi tìm thì biết được chiếc xe đó đang do Nguyễn Công T, con ông Nguyễn Công Hùng ở xóm 6, xã Đại Sơn đang sử dụng. Anh Nguyễn Duy Mai đến nhà tìm xe nhưng không gặp được T. Nguyễn Công T đã nhận được tin nhắn của chị gái Nguyễn Thị Nghĩa hỏi về việc có lấy xe của anh Nguyễn Duy Mai hay không, T trả lời có nhặt được và yêu cầu anh Nguyễn Duy Mai phải chuyển tiền chuộc xe cho T qua tài khoản. Nhưng anh Nguyễn Duy Mai sợ rằng chuyển tiền cho T, nhưng T cũng không trả xe nên đã làm đơn trình báo với Công an xã Đại Sơn. Còn Nguyễn Công T không thấy anh Mai chuyển tiền vào tài khoản nên để có tiền sử dụng ma túy, chơi lô đề, ngày 29/2/2019 T đã đưa chiếc xe trên bán cho anh Chu Quang An, sinh năm 1977, trú tại xóm 9 xã Trù Sơn, huyện Đô lương với giá 3.500.000 đồng. Ngày 4/3/2019 biết anh nguyễn Duy Mai đã báo công an, nên T đã đến nhà anh Chu Quang An chuộc chiếc xe đó trả lại cho anh Nguyễn Duy Mai.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 17/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Đô Lương kết luận: giá trị 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter gravita sơn màu đen bạc BKS 37Z9- 5437 số khung 5B96-079005, số máy 9609Y-079003 xe đã qua sử dụng từ năm 2009 là 10.400.000 đồng (mười triệu bốn trăm nghìn đồng).

Hành vi thứ 2: do cần tiền để đi Vinh tiêu xài Nguyễn Công T sinh năm 1995, trú tại xóm 6 xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Vì T đã cùng với cha để làm nghề buôn bán trâu bò nên T nghĩ đến việc lừa mua trâu của ai đó bằng lòng tin của người bán với mình, giao bò cho T đi bán trước rồi lấy tiền sau. Để khi họ đồng ý bán, giao bò cho T thì T sẽ đưa bò đi bán lấy tiền thật tiêu xài cá nhân. Nghĩ vậy nên khoảng nên khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/2/2019 T đã đi một mình đến nhà chị anh chị Nguyễn Thị Tài, sinh năm 1987, (có chồng tên Thắng) ở xóm 2, xã Đại Sơn mà trước đây T đã từng giao dịch mua trâu bò một lần. T đến nhà thì gặp chị Tài, T hỏi: “chị có con bò mô bán không”, chị Tài nói : “không có hàng chưa về”. T đi ra chuồng bò phía sau nhà thì thấy có một con bò cái và một con me đực thì T đi vào gặp chị Tài và nói : “ có con me đực sau có bán không”, chị Tài trả lời : “ chú mua được mấy” thì T nói “me của chị thì chị phải nói giá” thì chị Tài nói “ mười lăm triệu”, T trả xuống “mười bốn triệu”, chị Tài không bán và nói lại “bớt cho chú hai trăm”, T đồng ý mua và để tạo niềm tin cho chị Tài, T nói “bán cho em thì mau tiền thôi” và T nói chị Tài gọi điện cho chồng để trao đổi việc mua bán me. Anh Thắng đang đi đám cưới nên bảo với T giao dich với chị Tài. Sau khi T đồng ý mua con me đực với giá 14.800.000 đồng (mười bốn triệu tám trăm nghìn đồng), thì chị Tài đồng ý giao me cho T, đi được một đoạn thì T quay lại nói với chị Tài “cho em gửi lại tí em cho người qua dắt me sau”. T đi đến nhà anh Nguyễn Khắc Thắng sinh năm 1969, ở xóm 7 xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, đây là người chuyên mua trâu bò và trả tiền ngay. T gặp anh Thắng và nói : em mua được con me 12.500.000 đồng (mười hai triệu năm trăm nghìn đồng), anh đi với em xem được thì em dăt me về rồi anh đưa tiền để em trả cho họ”, anh Thắng đồng ý đi với T sang nhà chị Tài để xem me, (lúc này chị Tài không có nhà), xem xong anh Thắng nói “ me ni chỉ bắt được mười một triệu” và T đã đồng ý bán cho anh Thắng và cùng anh Thắng dắt me về. Khi đến đoạn trường mầm non thuộc xóm 6 xã Đại Sơn T nói anh Thắng dừng lại trông me để T thuê người dắt me. T đến nhà chị Phan Thị Diên, sinh năm 1965, trú tại xóm 4 xã Đại Sơn là người chuyên dắt trâu bò thuê, chở chị Duyên đến dắt me về nhà anh Thắng. Khi có chị Diên đến dắt me T và anh Thắng đi về nhà anh Thắng. Tại đây Anh Thắng giao cho T 10.900.000 đồng (mười triệu chín trăm nghìn đồng) vì T bớt cho anh Thắng 100.000 đ (một trăm nghìn đồng). Lấy tiền xong T đi Vinh tiêu xài cá nhân. Về phía bị hại chị Nguyễn Thị Tài trên đường gặp chị Diên dắt me nên đã đi cùng chị Diên hỏi thăm con me đó T bán cho ai. Chị Tài đã cùng chị Diên đi đến nhà anh Thắng ở xóm 7 xã Đại Sơn, thông qua hỏi han chị Tài mới biết T bán lại con me của mình cho anh Thắng với giá 10.900.000 đồng. nên đã đến nhà ông Nguyễn Công Hùng là bố đẻ của T ở xóm 6, xã Đại Sơn để hỏi tiền bán me thì nghe ông Hùng nói “bay mà bán cho hắn là bay mất”, nên chị Tài đã quay lại nhà anh Thắng, nói lại sự việc, sau đó anh Thắng và chị Tài đã làm đơn trình báo công an xã Đại Sơn về vụ việc trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 02/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Đô Lương kết luận Giá trị 01 (một) con me (con bò con) đực lông màu vàng đen khoảng 3 (ba) năm tuổi là 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng).

Về vật chứng vụ án: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter gravita sơn màu đen bạc BKS 37Z9-5437 số khung 5B96-079005, số máy 9609Y- 079003 xe đã qua sử dụng. 01 (một) con me (con bò con) đực lông màu vàng đen khoảng 3 (ba) năm tuổi. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương đã giao lại cho người bị hại anh Nguyễn Duy Mai và chị Nguyễn Thị Tài bảo quản và sử dụng.

Về trách nhiệm : Người bị hại chị Nguyễn Thị Tài sau khi nhận lại tài sản bị mất là 01 me đực màu vàng đen khoảng 3 năm tuổi từ cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương nay không yêu cầu bồi thường về mặt dân sự. Và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị hại Nguyễn Duy Mai đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về mặt dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

Người liên quan anh Nguyễn Khắc Thắng và anh Chu Quang An không có yêu cầu gì về mặt dân sự.

Bản cáo trạng số 64/VKS-HS ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Nguyễn Công T về tội "Trộm cắp tài sản" và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 173 và khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T phạm tội "Trộm cắp tài sản" và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 điều 173; khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 điều 51; điểm a khoản 1 điều 55 Bộ luật hình sự. xử phạt bị cáo Nguyễn Công T 06 đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” 07 đến 10 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Tổng hợp hai tội buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung từ 13 tháng đến 19 tháng tù. Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt, không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của bị hại: Tại phiên tòa người quyền lợi liên quan anh Chu Quang An và người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ và không ảnh hưởng tới quá trình xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 292, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Công T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. 

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Công T phạm tội "Trộm cắp tài sản" và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 173 va khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: vào hồi 21 giờ ngày 20/02/2019, Nguyễn Công T đã lấy trộm 01 chiếc xe máy hiệu Jupiter của anh Nguyễn Duy Mai, sinh năm 1975, trú tại xóm 4, xã Lạc Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An (trị giá xe là 10.400.000 đồng). Tiếp theo vào khoảng 14 giờ ngày 21/02/2019 Nguyễn Công T đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Nguyễn Thị Tài, sinh năm 1987 ở xóm 2, xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An 01 con bê đực lông màu vàng đen khoảng 03 năm tuổi (Trị giá con bê là 13.000.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương truy tố bị cáo Nguyễn Công T về tội "Trộm cắp tài sản" và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 173 và khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có cơ sở.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là liều lĩnh, xem thường pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý bất an trong xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, hoàn toàn đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo T tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu khó tu chí làm ăn mà đua đòi chơi bời và sa vào lô đề cờ bạc nên đã phạm tội. Cần lên cho bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Công T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà có những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại; Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, b khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Với các nhận định trên, cần xét xử bị cáo nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo. Bị cáo phạm hai tội nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tài sản không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, có Chu Quang An, sinh năm 1977, trú tại xóm 9, xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An là người mua xe mô tô Juiter gravita do T trộm cắp mà có nhưng do An không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phạm tội.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Chu Quang An và Nguyễn Khắc Thắng đã nhận lại số tiền mua xe và mua bò, không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.

[8] Về vật chứng và xử lý vật chứng: 01 (một) chiếc xe máy hiệu Jupiter gravita sơn màu đen bạc BKS 37Z9-5437 và con bê đực long màu vàng đen anh Nguyễn Duy Mai và chị Tài. Xét thấy việc xử lý tài sản trên của Cơ quan điều tra, Công an huyện Đô Lương là đúng pháp luật và không có khiếu nại, tố cáo nên phù hợp, Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết;

[9] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội; buộc bị cáo Nguyễn Công T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công T phạm tội "Trộm cắp tài sản" và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Công T 07 (Bảy) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 08 (Tám) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 23/5/2019.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội: Buộc bị cáo Nguyễn Công T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Chu Quang An vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về