Bản án 65/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2019/QĐST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

Nguyễn Tân Đ sinh năm 1980, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Đào Thị H; có vợ Trần Thị H và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự, nhân thân: Quyết định số 374 ngày 02/3/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc; bị tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 01/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Nguyễn Tất G sinh năm 1984, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tất D và bà Nguyễn Thị P; có vợ Nguyễn Thị Ngọc T và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 01/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Đào Thanh T sinh năm 1981, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Hữu N và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 01/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Nguyễn Tất P sinh năm 1992, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tất T và bà Đào Thị B; có vợ Nguyễn Thị Minh T và có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 01/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Tạ Văn H sinh năm 1988, tại Phú Thọ. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Quang H và bà Trần Thị D; có vợ Nguyễn Thị H và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 01/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Đào Văn P sinh năm 1985, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn L và bà Nguyễn Thị L; có vợ Nguyễn Thị L và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 01/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 26/02/2019, Tổ công tác Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp với Công an xã Thủy Đường phát hiện, bắt quả tang tại nơi ở của Nguyễn Tất G thuộc thôn Bấc 2, xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng các đối tượng Nguyễn Tất G, Nguyễn Tân Đ, Tạ Văn H, Đào Thanh T, Nguyễn Tất P và Đào Văn P có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi “xóc đĩa”. Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 11.350.000 đồng, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn (được cắt ra từ cây bài chắn), 04 tấm thảm ghép cùng kích thước 60 cm x 60 cm; Thu giữ trong người Nguyễn Tất G số tiền 30.000 đồng, Nguyễn Tân Đ số tiền 3.720.000 đồng, Đào Thanh T số tiền 150.000 đồng, Nguyễn Tất P số tiền 80.000 đồng. Lực lượng Công an đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và dẫn giải các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Tất G, Nguyễn Tân Đ, Tạ Văn H, Đào Thanh T, Nguyễn Tất P, Đào Văn P khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 26/02/2019, H, T, P, P đến nhà G chơi. Tại đây, G, H, T, P, P rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức chơi “xóc đĩa”. Nguyễn Tất P lấy 01 bát sứ và 01 đĩa sứ tại nhà G để trên tấm thảm trải sẵn, H cắt 04 quân vị hình tròn từ cây bài chắn. Cả nhóm thống nhất cách thức đánh bạc tỷ lệ thắng thua là 1/1 theo hai mặt chẵn, lẻ, quy định mặt chẵn ở bên trong lòng người xóc cái, mặt lẻ ở bên ngoài nơi người đánh bạc ngồi. Khi người xóc cái mở bát nếu trong 04 quân vị có 01 quân xanh, 03 trắng hoặc 01 trắng 03 xanh là lẻ; nếu 02 quân trắng, 02 quân xanh hoặc 04 quân đều xanh hoặc trắng thì là chẵn. Người đánh bạc có thể đặt tiền vào cửa chẵn hay cửa lẻ để chơi tùy ý, số tiền đặt thấp nhất là 50.000 đồng. Đào Thanh T là người xóc cái và giam tiền để G, H, P, P chơi đánh bạc. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày Nguyễn Tân Đ đến và cùng tham gia đánh bạc. Trong quá trình tham gia đánh bạc, Nguyễn Tất G sử dụng số tiền 3.470.000 đồng; Nguyễn Tân Đ sử dụng 200.000 đồng; Đào Thanh T sử dụng 2.350.000 đồng; Nguyễn Tất P sử dụng 2.830.000 đồng, Tạ Văn H sử dụng 1.200.000 đồng, Đào Văn P sử dụng 1.300.000 đồng để đánh bạc. Đám bạc chơi nhiều ván nhưng chưa rõ thắng, thua. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi đám bạc đang chơi thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như trên.

Vật chứng của vụ án gồm: Số tiền 11.350.000 đồng, 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn (được cắt ra từ cây bài chắn), 04 tấm thảm ghép cùng kích thước 60 cm x 60 cm chuyển Chi Cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên quản lý.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi đánh bạc như đã nêu trên.

Ông Kiểm sát viên, các bị cáo đồng ý với nội dung các biên bản bắt giữ, thu giữ, không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Bản Cáo trạng số 54/2019/CT-VKS ngày 28 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Nguyễn Tất G, Nguyễn Tân Đ, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T về tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự (BLHS). Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 35 và 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Tân Đ từ 06 đến 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, trừ cho bị cáo thời hạn tạm giữ từ ngày 26/02/2019 đến ngày 01/3/2019; Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 35, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Tất G từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”; Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 35, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Tạ Văn H từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”; Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 35, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Đào Văn P từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”; Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 35, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Tất P từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”; Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 35, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt Đào Thanh T từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”; ấn định thời gian thử thách cho các bị cáo được hưởng án treo theo quy định của pháp luật; miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo. Giao các bị cáo Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T cho Ủy ban nhân dân xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp các bị cáo Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự; tịch thu tiêu hủy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn, 04 tấm thảm ghép cùng kích thước 60 cm x 60 cm; tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 11.350.000 đồng (của bị cáo G 3.470.000 đồng; của bị cáo P 2.830.000 đồng; của bị cáo H 1.200.000 đồng; của bị cáo T 2.350.000 đồng; của bị cáo P 1.300.000 đồng; của bị cáo Đ 200.000 đồng); các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Ngày 26 tháng 02 năm 2019 các bị cáo Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P, Đào Thanh T và Nguyễn Tân Đ đã có hành vi đánh “xóc đĩa” được thua bằng tiền với tổng số tiền 11.350.000 đồng là phạm tội Đánh bạc; tội phạm và hình phạt đối với các bị cáo được quy định tại khoản 1 Điều 321 của BLHS. Các chứng cứ xác định các bị cáo không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mấy trật tự trị an xã hội. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Các bị cáo G, H, P, P và T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đều được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[4] Về hình phạt: Đây là vụ án có đồng phạm nên cần phân hóa vai trò của từng bị cáo để có mức án phù hợp.

[4.1] Các bị cáo Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T chủ động đề xuất, rủ rê nhau thực hiện hành vi phạm tội đồng thời là người thực hành tích cực; bị cáo G dùng địa điểm của mình và dùng số tiền 3.470.000 đồng để đánh bạc; bị cáo P chuẩn bị bát, đĩa và dùng số tiền 2.830.000 đồng để đánh bạc; bị cáo H cắt quân vị và dùng số tiền 1.200.000 đồng để đánh bạc; bị cáo T xóc cái, giam tiền và dùng số tiền 2.350.000 đồng để đánh bạc; bị cáo P cùng thống nhất ý chí đánh bạc ngay từ đầu, chờ các bị cáo khác chuẩn bị công cụ và đã dùng số tiền 1.300.000 đồng để đánh bạc; bị cáo Đ dùng số tiền 200.000 đồng để đánh bạc. Vì vậy, vai trò của bị cáo G là cao nhất trong vụ án, vai trò của các bị cáo T, P, H, P là như nhau; vai trò của bị cáo Đ là thấp nhất. Do đó hình phạt của bị cáo G sẽ cao nhất và cao hơn các bị cáo khác, hình phạt của bị cáo T, P, H, P là ngang bằng nhau; hình phạt của bị cáo Đ là thấp nhất.

[4.2] Đối với bị cáo Nguyễn Tân Đ tuy vai trò thấp nhất, nhưng ngày 02 tháng 3 năm 2018 đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, đến ngày 26 tháng 02 năm 2019 (Chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính) lại tiếp tục phạm tội đánh bạc chứng tỏ bị cáo không có ý thức tu dưỡng; cần áp dụng hình phạt tù và xử với mức án bằng mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung. Các bị cáo Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, nhất thời phạm tội, nhân thân đều chưa có tiền án, tiền sự và có khả năng tự cải tạo mà không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; vậy nên xem xét cho các bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo; áp dụng Điều 65 của BLHS cho các bị cáo G, H, P, P và T được hưởng án treo và xử phạt các bị cáo mức án trên mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 3 Điều 321 của BLHS quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Xét thấy các bị cáo là lao động tự do, không có nguồn thu nhập ổn định nên không phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn, 04 tấm thảm ghép cùng kích thước 60cmx60cm đã dùng vào việc đánh bạc cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền thu giữ 11.350.000 đồng (trong đó của bị cáo G 3.470.000 đồng; của bị cáo P 2.830.000 đồng; của bị cáo H 1.200.000 đồng; của bị cáo T 2.350.000 đồng; của bị cáo P 1.300.000 đồng; của bị cáo Đ 200.000 đồng) là tiền dùng để đánh bạc cần tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước.

[7] Về những vấn đề khác: Vụ án này không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Đối với số tiền thu giữ trong người G (30.000 đồng), Đ (3.720.000 đồng), T (150.000 đồng) và P (80.000 đồng); tài liệu điều tra xác định các bị cáo không dùng vào việc đánh bạc nên cần trả lại cho các bị cáo sử dụng, song do các bị cáo còn phải thực hiện nghĩa vụ về án phí nên Cơ quan điều tra đã trả lại số tiền trên tại giai đoạn này là chưa phù hợp pháp luật. Lẽ ra cần tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án, số tiền còn lại sau khi thực hiện xong nghĩa vụ sẽ trả cho bị cáo sử dụng.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 các điều 17 và 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Tân Đ 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, trừ cho bị cáo thời hạn tạm giữ từ ngày 26 tháng 02 năm 2019 đến ngày 01 tháng 3 năm 2019. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Nguyễn Tân Đ không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Tất G 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Tạ Văn H 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Đào Văn P 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Tất P 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, các điều 17, 58 và 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Đào Thanh T 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T cho Ủy ban nhân dân xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp các bị cáo Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bát sứ, 01 đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn (được cắt ra từ cây bài chắn), 04 tấm thảm ghép cùng kích thước 60 cm x 60 cm; Tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước số tiền 11.350.000 (Mười một triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ của các bị cáo G, P, H, T, P và Đ để nộp sung quỹ Nhà nước (Chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24 tháng 5 năm 2019 và Biên lai thu tiền số 6539 ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; các bị cáo Nguyễn Tân Đ, Nguyễn Tất G, Tạ Văn H, Đào Văn P, Nguyễn Tất P và Đào Thanh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về