Bản án 66/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 66/2017/HSST NGÀY 18/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam,xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2017/HSST ngày 16 tháng 8 năm 2017, theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 64/2017/HSST-QĐ ngày 05/9/2017, đối với bị cáo:

Đỗ Văn T, sinh năm 1987; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Thôn BL, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị Q; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 17/02/2017 bị Công an huyện Thanh Liêm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/5/2017 đến ngày 17/5/2017 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1. Anh Trần Đức T1 - sinh năm 1998; nơi ĐKHKTT tại: Thôn BL, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

2. Anh Vũ Chí T2 - sinh năm 1984; nơi ĐKHKTT tại: Thôn Xuân H, xã GX, huyện GV, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị L - sinh năm 1971; nơi ĐKHKTT tại:Thôn Thong 3, xã TT, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

4. Chị Vũ Thị T3 - sinh năm 1980; nơi ĐKHKTT tại: Thôn LL, phường CS, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Anh T4- sinh năm 1978; nơi ĐKHKTT tại: Thôn PG, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

2. Ông Trần Văn L - sinh năm 1962; nơi ĐKHKTT tại: Xóm 1, thôn BL, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

3. Anh Phạm Quang T4- sinh năm 1971; nơi ĐKHKTT tại: Thôn 5, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

4. Chị Lê Thị Kim N - sinh năm 1990; nơi ĐKHKTT tại: Xóm 2, xã TS, huyện KB, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ 16, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

5. Chị Ngô Thị Lan H - sinh năm 1982; nơi ĐKHKTT tại: Tổ dân phố LL, phường CS, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Với mục đích trộm cắp tài sản để tiêu sài cá nhân, nên khoảng 16 giờ ngày 07/5/2017, Đỗ Văn T đi bộ một mình từ nhà đến quán internet của anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989 thuộc xóm Mới, thôn BL, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, T phát hiện thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu WaveS BKS 90B1-063.74 của anh Trần Đức T1 dựng trước cửa quán không có ai trông giữ, T dùng vam tự chế mang sẵn trong người phá khóa điện, nổ máy điều khiển xe bỏ chạy. Khi đi đến cánh đồng làng Hang, xã TN, T dừng xe lại tháo biển rồi lấy áo chống nắng có sẵn trên xe bọc lại kẹp vào khung xe rồi tiếp tục điều khiển xe mang đi tiêu thụ, khi đi đến địa phận xã Thanh H, huyện Thanh Liêm thì bị Tổ công tác của Phòng hình sự - Công an tỉnh Hà Nam phát hiện bắt giữ. T khai nhận đã trộm cắp chiếc xe trên.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam đã chứng minh trong khoảng thời gian từ 28/4/2017 đến ngày 05/5/2017, T còn thực hiện 03 vụ trộm cắp xe mô tô cụ thể:

1. Vụ thứ nhất:

Khoảng 19 giờ ngày 28/4/2017, Đỗ Văn T đi bộ từ nhà đến cảng Xuân Thành thuộc thôn BL, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. T thấy xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX BKS 35H3-0313 của anh Vũ Chí T2 để ở Cảng không có người trông coi, không khóa cổ, khóa càng, T dùng vam tự chế phá khóa điện rồi nổ máy điều khiển xe chạy ra thẳng QL1A theo hướng Ninh Bình - PL. Đến địa phận thôn Tâng, xã Thanh H, huyện Thanh Liêm T gọi điện cho một đối tượng tên Thành ở thành phố PL và nói muốn bán chiếc xe máy vừa trộm cắp được cho Thành, Thành đồng ý, khoảng 15 phút sau tại địa phận Dốc Bói, xã Thanh Phong, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam T gặp Thành và bán chiếc xe máy trên cho Thành với giá 3.000.000đ.

2. Vụ thứ hai:

Khoảng 09 giờ ngày 03/5/2017, T đi nhờ xe tải đến xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, khi đi đến địa bàn thônT4Hiếu Hạ, xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, T phát hiện 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen, BKS 90H5-1805 của chị Nguyễn Thị L dựng cạnh bờ tường không có người trông giữ, T đã sử dụng vam phá khóa tự chế phá ổ khóa điện của xe rồi điều khiển xe chạy ra QL1A. Trên đường đi T gọi điện cho Thành thông báo vừa trộm cắp được 01 xe máy kèm theo toàn bộ giấy tờ xe muốn bán cho Thành, Thành đồng ý. T đã bán cho Thành chiếc xe máy trên với giá 4.000.000 đồng.

3. Vụ thứ ba:

Khoảng 15 giờ ngày 05/5/2017, T đi nhờ xe tải đến Đội 6, thôn BL, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, T xuống xe đi bộ vào làng thì phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 90H3-0189 của chị Vũ Thị T3, chị T3 dựng xe trên đường để đi vệ sinh, T thấy xe không có người trông giữ, không khóa cổ, khóa càng nên đã dùng vam phá khóa phá ổ khóa điện, rồi điều khiển xe chạy thẳng ra QL1A và đã bán chiếc mô tô trên cho Thành với giá 3.000.000đ.

Tài sản, vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu đỏ có số khung RLHJC5211CY030628, số máy JC52E-4036363; 01 biển kiểm soát 90B1-063.74; 01 áo chống nắng; 01 điện thoại di động Nokia model 206 màu trắng trong tình trạng máy không sử dụng được; 01 (một) vam phá khóa bằng kim loại hình chữ Z một đầu được tán dẹt nhọn dài khoảng 8cm, một đầu dài khoảng 03cm được gắn với một khẩu kim loại đường kính 0,8cm rỗng giữa hình lục giác dài khoảng 02cm, đoạn giữa hình trụ tròn dài khoảng 10cm.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đỗ Văn T tại thôn BL, xã TN, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Hà Nam thu giữ: 01 giấy chứng minh thư nhân dân số 168542215, 01 giấy phép lái xe số 351136000454 đều mang tên Nguyễn Thị L sinh năm 1971, trú tại TT, Thanh Liêm, Hà Nam.

Quá trình điều tra, những người đã mua xe là tang vật của vụ án đã tự nguyện đến Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Nam giao nộp gồm:

- Ngày 30/4/2017, anh Phạm QuangT4giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 35H3-0313.

- Ngày 06/5/2017 chị   Lê Thị Kim N giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen BKS 90H5-1805 và 01 đăng ký mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Minh An.

- Ngày 06/5/2017 chị Ngô Thị Lan H giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 90H3-0189.

Tại bản kết L định giá tài sản số 09/2017/KL-ĐGTS ngày 12/5/2017 của Hội đồng định giá tài sản tỉnh Hà Nam kết L: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 35H3-0313 có giá trị 15.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter MX màu đen BKS 90H5-1805 có giá trị 11.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 90H3-0189 có giá trị 12.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 90B1-063.74 có giá trị 16.000.000 đồng; tổng giá trị 04 chiếc xe trên là 54.000.000 đồng (Năm mươi tư triệu đồng).

Như vậy, tổng số tài sản Đỗ Văn T đã trộm cắp của anh Trần Đức T1, Anh Vũ Chí T2, chị Nguyễn Thị L, Chị Vũ Thị T3 là 54.000.000 đồng (Năm mươi tư triệu đồng).

Bản cáo trạng số 66/KSĐT ngày 15/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Đỗ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm e khoản 2, khoản 5 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Đỗ Văn T từ 36 đến 48 tháng tù. Hình phạt bổ sung buộc bị cáo phải nộp từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước. Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 điện thoại di động Nokia model 206 màu trắng trong tình trạng máy không sử dụng được, 01 vam phá khóa bằng kim loại.

Bị cáo T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến tranh L gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh L tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết L: Với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu sài cá nhân, từ ngày 28/4/2017 đến ngày 07/5/2017, lợi dụng sơ hở của người khác, Đỗ Văn T đã lén lút thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản gồm 04 chiếc xe máy có tổng trị giá tài sản là 54.000.000 đồng.

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa pH. Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị trên năm mươi triệu đồng và dưới hai trăm triệu đồng. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử kết L: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố Đỗ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[4] Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo có một tiền sự: Ngày 17/02/2017 bị Công an huyện Thanh Liêm xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Qua xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo tuổi còn trẻ nhưng không chịu khó làm ăn, tu dưỡng bản thân, mà thích hưởng lạc, coi thường pháp luật, phạm tội nghiêm trọng; nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với người có tên là Thành là người trực tiếp mua lại những xe mô tô do T trộm cắp được. Khi mua xe của T, Thành đều biết rõ là xe do T trộm cắp. Sau khi mua xe trộm cắp của T, bằng thủ đoạn gian dối Thành đã chiếm hưởng số tiền chênh lệch là 2.500.000 đồng. Hành vi của Thành đã đồng phạm với Đỗ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” với vai trò giúp sức tích cực. Tuy nhiên, Đỗ Văn T không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của Thành, quá trình điều tra không làm rõ được nhân thân, lai lịch của Thành nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này. Đề nghị Cơ quan Công an tiếp tục xác minh điều tra làm rõ để xử lý đối tượng tên Thành theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Phạm QuangT4và chị Ngô Thị Lan H là những người cho đối tượng tên Thành vay tiền và để lại các xe mô tô là tang vật của vụ án để làm tin. Đối với chị Lê Thị Kim N là người mua xe của Thành là tài sản trộm cắp trong vụ án. Song cả anh Trung, chị H và chị N đều không biết những xe đó là xe do trộm cắp mà có. Mặt khác anh Trung, chị H và chị N đều tự nguyện giao nộp các xe mô tô trên cho Cơ quan điều tra. Do vậy hành vi của anh Phạm Quang Trung, chị Ngô Thị Lan H và chị Lê Thị Kim N không cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Do vậy không xử lý về hình sự đối với anh Trung, chị H và chị N là phù hợp pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không ai yêu cầu bồi thường thiệt hại dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải Q.

[8] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Nam đã trả lại tài sản cho những người bị hại gồm: Anh Trần Đức T1 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 90B1-063.74 và 01 áo chống nắng màu đen có hoa văn màu trắng; chị Nguyễn Thị L 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter MX màu đen có BKS 90H5-1805, 01 Chứng minh thư nhân dân và 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Nguyễn Thị L, 01 đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Minh An do Công an tỉnh Hà Nam cấp ngày 18/8/2008; chị Vũ Thị T3 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu đen có BKS 90H3-0189; anh Vũ Chí T2 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen trắng có BKS 35H3-0313. Việc xử lý những vật chứng trên là phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với 01 điện thoại di động Nokia model 206 màu trắng trong tình trạng máy không sử dụng được và 01 vam phá khóa bằng kim loại. Những tài sản trên không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Đỗ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm e khoản 2, khoản 5 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 48 (Bốn mươi tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 08/5/2017.

Áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự: Q định tạm giam bị cáo Đỗ văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Phạt Đỗ Văn T 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 điện thoại di động Nokia model 206 màu trắng trong tình trạng máy không sử dụng được, 01 vam phá khóa bằng kim loại hình chữ Z một đầu được tán dẹt nhọn dài khoảng 8cm, một đầu dài khoảng 03cm được gắn với một khẩu kim loại đường kính 0,8cm rỗng giữa hình lục giác dài khoảng 02cm, đoạn giữa hình trụ tròn dài khoảng 10cm.

(Tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/8/2017 giữa Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Liêm).

3. Án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Đỗ Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, Q định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2017/HSST ngày 18/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:66/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về