Bản án 66/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 66/2017/HSST NGÀY 23/11/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2017, tại Chung cư An Phúc-An Lộc, phường An Phú, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2017/HSST ngày 16/10/2017 theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 97/2017/HSST-QĐ ngày 06/11/2017 đối với bị cáo: Đoàn Thanh T; giới tính: Nam; sinh ngày: 16/6/1996 tại: Tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã B, thành phố C, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 07/12; nghề nghiệp: Nhân viên bảo vệ; con ông Đoàn Thanh Q, sinh năm 1968 và bà Phạm Thị N, sinh năm 1968; tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/6/2017 đến nay, có mặt.

- Người bị hại: Chị Huỳnh Thanh T1, sinh năm: 1992. Nơi cư trú: Đường G, phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 10 phút ngày 23/6/2017, sau khi chở người quen về Quận 10, Đoàn Thanh T điều khiển xe mô tô hiệu Exciter biển số 59C2-331.30 lưu thông trên đường Nguyễn Thị Minh Khai thì phát hiện anh Lê Văn Đ (tài xế chạy xe ôm Grab) chở chị Huỳnh Thanh T1 ngồi phía sau theo hướng từ Quận 3 về Cầu Sài Gòn. Chị T1 đeo một túi xách màu đen hiệu Vascara để trên yên xe phía trước người, bên trong có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 101, 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng, có mặt đính hình trái tim và 5.200.000 đồng. Lúc này, T nảy sinh ý định chiếm đoạt túi xách của chị T1 nên điều khiển xe mô tô chạy bám sát theo phía sau xe anh Đ để xem điều kiện thuận lợi sẽ cướp giật túi xách của chị T1. Khi anh Đ điều khiển xe chở chị T1 đến trước Doanh trại quân đội trên đường Quốc Hương thuộc khu phố 4, phường Thảo Điền, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh thì T điều khiển xe từ phía sau lên, ép sát bên phải xe của anh Đ rồi dùng tay giật túi xách của chị T1, nhưng không giật được và chị T1 giằng co nên cả hai té ngã xuống đường. T đứng dậy định lên xe tẩu thoát thì bị anh Đ tri hô. Lúc này, Tổ Hình sự đặc nhiệm Công an Quận 2 đang tuần tra gần đó nghe được và hỗ trợ cùng anh Điểm bắt giữ T giao cho Công an phường Thảo Điền lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Công an phường Thảo Điền và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận 2, Đoàn Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 136/ HĐĐGTS - TCKH ngày 18/7/2017 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp quận thuộc Ủy ban nhân dân Quận 2, đã kết luận:

- 01 túi xách nữ màu đen hiệu Vascara trị giá 600.000 đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu trắng, imei: 35383908066 4414 (đã qua sử dụng) trị giá 17.000.000 đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia Model 101, màu xám, imei 1: 355518/ 05/468944/5; imei 2: 355518/05/468945/2 (đã qua sử dụng) trị giá 250.000 đồng.

- 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng dài 42cm, có mặt đính hình trái tim (đã qua sử dụng) trị giá 850.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản là: 18.700.000 đồng (mười tám triệu bảy trăm ngàn đồng).

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi xách nữ màu đen hiệu Vascara; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia Model 101, màu xám; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng dài 42cm, có mặt đính hình trái tim và 5.200.000 đồng (đã trả lại chủ sở hữu là chị Huỳnh Thanh T1).

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 59C1-331.30 màu xanh trắng (đã qua sử dụng)

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng, Imei: 3543850691 42005 (đã qua sử dụng).

- 01 giấy phép lái xe hạng A1 và giấy chứng minh nhân dân mang tên Đoàn Thanh T.

- 01 giấy đăng ký xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số: 59C1-331.30 mang tên Phùng Minh T.

Qua xác minh được biết xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số: 59C1- 331.30 do anh Phùng Minh MT đứng tên sở hữu. Anh MT bán xe trên lại cho ông Trần Tấn T2 (cha dượng của T) nhưng chưa làm thủ tục sang tên. T mượn xe của ông T2 để đi công việc, sau đó sử dụng xe mô tô trên đi cướp giật tài sản thì ông T2 không biết nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô và giấy đăng ký xe trên cho ông T2.

Qua điều tra, T có yêu cầu trả lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đoàn Thanh T cho mẹ ruột của T là bà Phạm Thị N. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản trên cho bà N theo yêu cầu của T.

Về dân sự:

- Chị Huỳnh Thanh T1 đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác.

Bản cáo trạng số 72/Ctr-Vks ngày 06 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Đoàn Thanh T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án “Cướp giật tài sản” do Đoàn Thanh T thực hiện hành vi phạm tội. Khoảng 06 giờ 10 phút ngày 23/6/2017, T đã sử dụng xe mô tô ép sát xe mô tô của anh Lê Văn Đ rồi dùng tay giật 01 túi xách của chị Huỳnh Thanh T1 đang ngồi phía sau xe của anh Đ. Bên trong túi xách của chị T1 có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 101,01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng, có mặt đính hình trái tim và 5.200.000 đồng. Qua định giá số tài sản và tiền mặt của chị T1 mà T cướp giật, tổng trị giá là 23.900.000 đồng. Hành vi của T là đã dùng thủ đoạn nguy hiểm, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội nên cần phải được xử lý nghiêm theo quy định pháp luật để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu nhân thân chưa có tiền án tiền sự. Hơn nữa bị cáo phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt, tài sản mà bị cáo cướp giật vẫn chưa lấy được do có sự giằng co của người bị hại dẫn đến bị cáo cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 18; Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Về trách nhiệm dân sự: Chị T1 đã nhận lại tài sản cam kết không khiếu nại, thắc mắc gì về sau nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 18; Điều 52; Điều 33 Bộ luật Hình sự: Xử phạt: Bị cáo Đoàn Thanh T từ 03 đến 04 năm tù.

Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất hối hận xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đoàn Thanh T thừa nhận đã có hành vi giật túi xách của chị Huỳnh Thanh T1 bên trong túi xách của chị T1 có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 101,01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng, có mặt đính hình trái tim và 5.200.000 đồng. Qua định giá số tài sản và tiền mặt của chị T1 mà T cướp giật, tổng trị giá là 23.900.000 đồng và bị quần chúng nhân dân bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản định giá tài sản, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng... Và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Đoàn Thanh T đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điều 136 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội, gây nguy hiểm, ảnh hưởng đến tinh thần, sức khỏe của người bị hại, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo đã dùng xe mô tô để áp sát giật tài sản của người khác và sau đó nhanh chóng tẩu thoát là tình tiết định khung tăng nặng dùng thủ đoạn nguy hiểm được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự nên cần phải áp dụng đối với bị cáo khi lượng hình.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác. Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu nhân thân chưa có tiền án tiền sự, bị cáo phạm tội chưa đạt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 18; Điều 52 Bộ luật Hình sự 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, nên áp dụng cho bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về dân sự: Chị T1 đã nhận lại tài sản và cam kết không khiếu nại, thắc mắc gì về sau nên Hội đồng xét xử không xem xét thêm.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Thanh T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 18; Điều 52; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Đoàn Thanh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2017.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Đoàn Thanh T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:66/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về