Bản án 66/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 68/2019/TLST-HS ngày 20/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐXXST-HS ngày 18/7/2019 đối với bị cáo:

Phạm mạnh H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 15 tháng 4 năm 1971 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: tổ 01, phường T, thành phố S, tỉnh Sơn La ; trình độ văn hóa : 12/12; nghề nghiệp: Không. Dân tộc: Kinh; giơi tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không. Con ông Phạm Xuân H1 (đã chết) và bà Lưu Thị P; bị cáo có vợ là Trần Thị H2 và có 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2007; tiền sự: không; Tiền án: có 03 tiền án Ngày 16/10/1998, bị tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 13 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Ngày 17/7/2012, bị tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 28/8/2015, bị tòa án nhân dân huyện Yên Châu xử phạt 30 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. (Đều chưa được xóa án tích); bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/01/2019 đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21h45’ ngày 07/01/2019, tại khu vực tổ 01, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy - Công an thành phố S phối hợp với Công an phường Q, thành phố S phát hiện, bắt quả tang Phạm mạnh H và Bạc khăm BL có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa 04 viên nén màu hồng, hình tròn đồng dạng và 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất cục, bột màu trắng (H tự giác lấy từ bên trong túi áo khoác ngoài bên trái đang mặc ra giao nộp, khai nhận là Hồng phiến và Heroine, cất giấu để sử dụng); tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha JANUS, biển kiểm soát 26B2 - 258.04, đã qua sử dụng; 01 Chứng nhận đăng ký xe mô tô số 041259 mang tên Lò thanh T của Bạc khăm BL); 01 Chứng minh nhân dân số 050352094 mang tên Phạm mạnh H của Phạm mạnh H.

Ngày 08/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh: 04 viên nén màu hồng, hình tròn đồng dạng chứa trong 01 gói nilon màu xanh có tổng khối lượng là 0,36 gam, lấy toàn bộ 0,36 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu H1; số chất cục, bột màu trắng chứa trong 01 gói giấy bạc có khối lượng là 0,34 gam, lấy 0,08 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu H2. còn lại 0,24 gam lưu kho vật chứng, ký hiệu H3.

Ngày 08/01/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S ra Quyết định trưng cầu giám định số 419/QĐ đối với các vật chứng được đánh ký hiệu H1, H2.

Kết luận giám định số: 215, ngày 12/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, Kết luận: "Mẫu giám định ký hiệu H1 là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,36 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu H2 là chất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam, tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 0,36 gam, loại chất Methamphetamine và 0,34 gam; loại chất Heroine". Mẫu giám định dã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại cơ quan điều tra, Phạm mạnh H khai nhận: Do nghiện chất ma túy, khoảng 19h00' ngày 07/01/2019, H đi xe ôm từ nhà tại tổ 14, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La đến khu vực bến xe khách Sơn La thuộc tổ 01, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, H gặp Bạc khăm BL đang tìm mua ma túy, L hỏi H có biết chỗ nào bán ma túy không, H trả lời biết, nghe vậy, L lấy ra 90.000đ (Chín mươi nghìn đồng) đưa cho H nói là góp tiền cùng mua ma túy sử dụng, H đồng ý. Sau đó H bảo L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha JANUS, biển kiểm soát: 26B2 - 258.04 của L chở H đến số nhà 276, đường LD thuộc tổ M, phường CS, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy. Khi đến nơi, L đứng đợi bên ngoài còn H đi vào trong nhà và gặp dược 01 người nữ giới tên Nguyễn thị bích H (Sinh năm 1971, trú tại: Tổ 8, phường CL, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La). Qua nói chuyện, H hỏi và mua được của Hồng 04 viên Hồng phiến và 01 gói Heroine với số tiền 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Sau đó, H cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong túi áo khoác ngoài, bên trái đang mặc rồi quay lại chỗ L đứng đợi, bảo L điều khiển xe đưa H về. Khi cả hai đi đến khu vực tổ 01, phường Q, thành phố S thì bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Quá trình điều tra và tiến hành đối chất, Bạc khăm BL không thừa nhận việc đã đưa tiền cho Phạm mạnh H để cùng đi mua ma túy mà chỉ cho H đi nhờ xe tới khu vực tổ 01, phường CS, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Sau đó H xuống xe đi đâu làm gì L không biết, L đi mua bánh cuốn tại khu vực tổ 02, phường CS, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La sau đó quay lại gặp H đang đứng ở vị trí đã xuống xe, H tiếp tục xin đi nhờ xe về nhà của H, L đồng ý. Khi cả hai đi đến khu vực tổ 01, phường Q, thành phố S thì bị tổ công tác Công an thành phố S phát hiện và bắt quả tang Phạm mạnh H đang tàng trữ trái phép chất ma túy. L khai nhận không biết việc H vừa mua ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngoài lời khai của L và H không có căn cứ nào khác chứng minh, nên không có đủ căn cứ kết luận Bạc khăm BL có liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy của Phạm mạnh H.

Về nguồn gốc số ma túy trong vụ án, bị cáo Phạm mạnh H khai nhận đã mua của Nguyễn Thị Bích H vào ngày 07/01/2019 tại khu vực tổ 01, phường CS, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Căn cứ theo lời khai của Phạm mạnh H, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S đã khám xét nơi ở của Nguyễn thị bích H và thu giữ được 16.0642 gam Methamphetamine và 0,716 gam Heroine nhưng qua lấy lời khai và đối chất, Nguyễn thị bích H không thừa nhận việc bán ma túy cho H. Ngoài lời khai của Phạm mạnh H không có căn cứ nào khác để chứng minh. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn thị bích H để điều tra về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở 01 vụ án khác.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha JANUS, biển kiểm soát 26B2- 258.04 và 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô mang tên Lò thanh T, quá trình điều tra, xác định là tài sản hợp pháp của bà Lò thanh T (Sinh năm 1958, trú tại tổ X, phường QT, thành phố S, tỉnh Sơn La là mẹ đẻ của Bạc khăm BL). L không biết việc H đi nhờ xe để tìm mua ma túy. Ngày 22/01/ 2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố S đã tiến hành trao trả chiếc xe và giấy đăng ký xe nêu trên cho bà Toàn quản lý và sử dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại cáo trạng số 36/CT-VKSTP ngày 20/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Phạm mạnh H về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố Phạm mạnh H phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Phạm mạnh H từ 05 năm 6 tháng đến 06 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ; vật chứng đã thu giữ ; biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại ; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiên. Có đủ căn cứ khẳng định: Phạm mạnh H đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 0,36 gam Methamphetamine và 0,34 gam Heroine (Tổng khối lượng tương đương 0,7 gam Methamphetamine) để sử dụng, đã vi phạm Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, vi phạm tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự “tái phạm nguy hiểm”. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nên được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo thuộc gia đình có công với cách mạng, có bố, mẹ đẻ được tặng thưởng huy chương kháng chiến trong thời kỳ kháng chiến chống mỹ nên cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo khi lượng hình.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản và thu nhập không ổn định, là đối tượng nghiện ma túy, xét không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ mẫu giám định là loại hàng nhà nước cấm, cần tịch thu tiêu hủy cùng với các phong bì niêm phong và 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh giấy bạc màu trắng không có giá trị sử dụng. Đối với 01 Chứng minh nhân dân mang tên Phạm mạnh H là giấy tờ cá nhân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm mạnh H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Phạm mạnh H: 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 07/01/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Phạm mạnh H.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc phong bì công văn công an thành phố S đã niêm phong. Mặt trước ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Phạm mạnh H - sinh năm 1971. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 07/01/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh giấy bạc màu trắng; mẫu lưu kho ký hiệu H3 = 0,26 gam”. Mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 07 dòng chữ ký + 07 dòng họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

Trả cho bị cáo Phạm mạnh H: 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Phạm mạnh H.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/6/2019 giữa Công an thành phố S và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Phạm mạnh H phải chiu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 29/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về