Bản án 66/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THUỴ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, tại phòng xét xử hình sự Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 66/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo :

Bùi Văn Đ, sinh ngày 03 tháng 02 năm 1964; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Số nhà 178, khu 4, thị trấn Đ, huyện TT, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 06/10; Bố đẻ: Bùi Văn N (đã chết), mẹ đẻ Nguyễn Thị Th, sinh năm 1927; Vợ Lê Thị N, sinh năm 1973; Có 2 con lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 2000. Tiền án, tiền sự: Không Bị tạm giữ từ ngày 30/5/2019 đến ngày 02/6/2019 chuyển tạm giam.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người chứng kiến:

+ Ông Trần Ngọc M, sinh năm 1949 – Vắng mặt 

 Nơi cư trú: khu 4, thị trấn Đ, TT, Thái Bình

+ Anh Phí Văn Hiệp, sinh năm 1981 – Vắng mặt

Nơi cư trú: khu 9, thị trấn Đ, TT, Thái Bình;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút, ngày 30/5/2019, bị cáo Bùi Văn Đ tới khu vực xã T Tr, huyện TT mua 01 túi ma túy của một người đàn ông khoảng 25 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ rồi đi xe ôm mang về nhà, mục đích để sử dụng. Vào khoảng 12 giờ cùng ngày, bị cáo đang đi bộ ở khu vực khu 4, thị trấn Đ thì bị Công an huyện TT tuần tra phát hiện. Tại đây, trước sự chứng kiến của ông Trần Ngọc M và anh Phí Văn H, bị cáo đã tự giác giao nộp 01 túi ni lông không màu, bên trong có chứa chất dạng tinh thể, trong suốt đang cầm ở lòng bàn tay trái, bị cáo khai là ma túy - loại Methamphetamine. Tổ công tác đã đưa bị cáo cùng người chứng kiến về UBND thị trấn Đ lập biên bản, niêm phong vật chứng mẫu A gửi giám định. Khám nơi ở của bị cáo không thu giữ được gì.

Kết luận giám định số 190/KLGĐ-PC09 ngày 30/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Vật chứng trong phong bì niêm phong mẫu A1, gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3181 gam Cáo trạng số 69/CT-VKSTT ngày 09 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TT truy tố Bùi Văn Đtội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội: Giữ nguyên cáo trạng, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Văn Đ từ 1năm đến 1 năm 6 tháng tù giam và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ (sau giám định).

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì về tội danh, hình phạt Viện kiểm sát đề nghị áp dụng; Lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Bùi Văn Đ có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ ma túy làm hủy hoại sức khỏe, làm khánh kiệt tài sản và là nguyên nhân dẫn đến nhiều vi phạm pháp luật; Tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm tới chế độ quản lý của Nhà nước về ma túy, là vi phạm pháp luật hình sự nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản quản lý vật chứng, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định; Lời khai của người chứng kiến của ông Trần Ngọc M và anh Phí Văn H cùng các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 : Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)……………….

.........................

c) Heroine, Cocainen, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam ;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”

[3] Bị cáo có nhân thân tốt, không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình, thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo ” theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có thời gian phục vụ Quân đội nên cho bị cáo hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải áp dụng Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt tù giam với mức hình phạt tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo tàng trữ ma túy với lượng nhỏ để sử dụng, qua xác minh bị cáo không có tài sản, thu nhập hàng ngày chỉ đủ cho sinh hoạt tối thiểu nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về người bán ma túy cho bị cáo, người lái xe ôm chở bị cáo do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, nhận dạng nên không có cơ sở để xử lý.

[7] Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy Methamphetamine đã thu giữ - sau giám định;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Mục I danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án Nghị quyết 326/2016//UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử:

1. Tội danh:

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.”

2. Hình phạt:

Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 01(một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam - ngày 30/5/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,2762 gam ma túy, loại Methamphetamine là số ma túy còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, mẫu A1 đựng trong phong bì niêm phong số 190/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (Vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Thái Thụy và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy ngày 09/7/2019)

4. Về án phí:

Bị cáo Bùi Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 31/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về