Bản án 662/2019/HS-PT ngày 05/09/2019 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 662/2019/HS-PT NGÀY 05/09/2019 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 05 tháng 9 năm 2019, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 604/2019/HSPT ngày 19/8/2019 đối với bị cáo Trần VN và Nguyễn ĐH do có kháng cáo của Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Trần VN, Nguyễn ĐH và Người đại diện hợp pháp cho bị hại cháu Chu VH đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HS-ST ngày 15/07/2019 của Tòa án huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

- Các bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Trần VN, sinh ngày 23/8/2003; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn T, xã T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Học sinh; trình độ văn hoá (học vấn) 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông không rõ và con bà Trần Thị V; vợ con chưa có; Tiền án tiền sự không có. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; (Có mặt).

2. Nguyễn ĐH, sinh ngày 07/5/2003; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Tr, xã T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp Học sinh; trình độ văn hoá (học vấn) 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và con bà Tạ Bích H; vợ con chưa có; Tiền án tiền sự không có.Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; (Có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

1. Chị Trần Thị V, sinh năm 1976; Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội – là Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trần VN; (Có mặt).

2. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1981; Địa chỉ: Thôn Tr, xã T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội – là Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn ĐH; (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo:

1. Ông Nguyễn Văn Hà thuộc Văn phòng luật sư Hà Lan và Cộng sự là Người bào chữa cho bị cáo Trần VN.(Có mặt).

2. Bà Lưu Ngọc Lan thuộc Văn phòng luật sư Hà Lan và Cộng sự là Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn ĐH. (Có mặt).

3. Ông Nguyễn Văn Quang và bà Nguyễn Bích Ngọc - Luật sư thuộc Công ty luật Hợp danh V.I.P, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Số 186 Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội – là Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn ĐH và bị cáo Trần VN. (Có mặt).

- Bị hại: Cháu Chu VH, sinh ngày 29/9/2004; Địa chỉ: Thôn Than N, xã T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. (Có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1974; Địa chỉ: Thôn Than N, xã T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 03/10/2018, Nguyễn VN bỏ nhà đi chơi, VN gặp Nguyễn Văn Q1. Nam nhờ Q1 chở đến nhà VH ở thôn Thanh Nhàn, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội. Khi đến nhà VH, VN gọi VH ra cổng nói chuyện. VN hỏi xin tiền VH nhưng VH không có tiền. VN nhìn vào trong nhà VH thấy có 03 chiếc xe đạp, VN bảo VH mang 01 chiếc xe đạp đi bán. VH không đồng ý thì VN bảo: “bây giờ mày đi bán hay thích đánh”. Sợ bị VN đánh nên VH đã dắt 01 chiếc xe đạp cũ đưa cho VN nhưng VN bắt VH phải tự dắt xe đi bán. Sau đó Q1 chở VN bằng xe đạp của Q1, còn VH đi xe đạp một mình đến cửa hàng thu mua phế liệu của bà Nguyễn Thị Xuân ở Thôn Tr, xã T, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội. VN cùng VH vào bán chiếc xe đạp cho bà Xuân được 85.000 đồng và đưa hết tiền cho VN. Lấy được tiền, Q1 chở VN về thì gặp ĐH. Cả ba cùng rủ nhau đi chơi điện tử hết số tiền trên.

Đến ngày 04/10/2018, VN rủ Q1 và ĐH đến nhà VH để bắt VH đem xe đạp bán lấy tiền chơi điện tử. Khi đến nhà VH, thấy cổng khóa không có ai ở nhà, VN thò tay sờ khe ở trên cánh cổng thì thấy chìa khóa. VN dùng khóa mở cổng để VN, ĐH và Q1 vào trong nhà VH và phát hiện 01 chiếc xe đạp mầu đỏ. VN dắt chiếc xe đạp cùng với ĐH đến nhà bà Xuân, còn Q1 về nhà trước. VN và ĐH đem xe đạp bán cho bà Xuân được 80.000đồngrồi cùng ĐH đi chơi điện tử hết số tiền trên. Ngày 05/10/2018, VN và ĐH đi chơi gặp VH đi học về. VN bắt VH đem xe đạp bán lấy tiền đưa cho VN, VH không đồng ý. VN bảo VH buổi chiều phải có 50.000đồng đưa cho VN, VH đồng ý rồi đi về. Đến chiều không thấy VH đưa tiền nên VN và ĐH tức giận, bàn nhau khi gặp VH sẽ đánh. Ngày 08/10/2018, VN và ĐH đến trường tìm gặp VH. Khi gặp VH, VN và ĐH gọi VH ra phía sau trường để nói chuyện về việc VH không đưa cho VN 50.000đồng như đã hứa. ĐH và VN cùng nhau dùng chân tay đánh, đấm vào đầu, mặt và vào người VH. Sau đó, VN và ĐH bắt VH đưa về nhà VH để ăn cơm. Khi về nhà VH, do cổng khóa không vào được. VN và VH cùng nhau trèo tường vào bên trong, rồi VN đi xuống bếp nhà VH lấy 01 con dao ra chặt đứt then cài khóa cổng để mở cổng cho ĐH vào. VN và ĐH bắt VH lấy cơm ra để ăn, VH lấy cơm nguội ra cho VN và ĐH ăn. Sau khi ăn xong, VN yêu cầu VH phải đưa cho VN 50.000đồng, VH nói không có tiền thì VN bắt VH phải đi vay tiền về cho VN. ĐH nói với VH: “mày có thẻ USB không”, VH nói không thì ĐH nói “Chiều nay mày phải kiếm 01 thẻ USB cho tao”. VH nói vâng và đi sang nhà ông nội VH là ông Chu Văn Ng xin 50.000đồng về đưa cho VN. Nhận được tiền, VN và ĐH cùng nhau đi chơi điện tử hết. Đến ngày 08/10/2018, gia đình VH biết VH bị đánh nên đã hỏi VH nguyên nhân. VH đã kể lại sự việc bị VN và ĐH đánh. Sau đó gia đình đã đưa VH đi khám chữa thương tích và trình báo Cơ quan Công an, huyện Sóc Sơn về vụ việc trên. Quá trình điều tra gia đình ĐH và gia đình VN tự nguyện hỗ trợ bồi thường cho cháu VH và gia đình số tiền 3.000.000đồng. Do vậy gia đình cháu VH cùng cháu VH có đơn từ chối giám định thương tích và có đơn không đề nghị xử lý về hình sự đối với VN và ĐH. Ngày 10/10/2018, Cơ quan CSĐT - Công an, huyện Sóc Sơn tạm giữ 02 chiếc xe đạp do bà Xuân giao nộp. Ngày 20/01/2019, Cơ quan CSĐT đã trả lại 02 chiếc xe đạp cho chị Minh (là mẹ đẻ cháu VH). Tại kết luận định giá tài sản số: 57 ngày 22/ 02/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự huyện Sóc Sơn kết luận: Chiếc xe đạp nữ mầu đỏ kiểu giáng mini do Việt VN sản xuất còn 40% có trị giá là: 750.000đồng.Tại kết luận định giá tài sản số 58 ngày 22/02/2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự huyện Sóc Sơn kết luận: Chiếc xe đạp mầu xanh nhãn hiệu Xuân Hòa còn 30% có trị giá là: 240.000đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bà X, chị M, ông Ng và cháu VH không đề nghị gì nữa đối với VN và ĐH.

Ti bản cáo trạng số: 72/CT/VKS ngày 04/ 6/2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố các bị cáo về tội "Cưỡng đoạt tài sản" theo điểm c, khoản 2, Điều 170 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án số 74/2019/HS-ST ngày 15/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Trần VN và Nguyễn ĐH phạm tội "Cưỡng đoạt tài sản"

Áp dụng: điểm c, khoản 2, Điều 170; điểm b, s, khoản 1, 2 Điều 51 (đối với VN thêm điểm g, khoản 1, Điều 52 phạm tội nhiều lần), Điều 54, 90, 91, 101 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt:

- Trần VN: 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Nguyễn ĐH 18 (mười tám) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 17/7/2019, Bị cáo Trần VN và Người đại diện hợp pháp cho bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngày 16/7/2019, Bị cáo Nguyễn ĐH và Người đại diện hợp pháp cho bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngày 18/7/2019, Người đại diện hợp pháp cho bị hại cháu Chu VH kháng cáo xin cho các bị cáo được hưởng án treo.

Ti phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo và Người đại diện hợp pháp cho các bị cáo và người đại diện hợp pháp cho người bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:

- Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Căn cứ lời khai của các bị cáo, lời khai của bị hại cùng các tài liệu chứng cứ nhận thấy:

Đối với hành vi ngày 03/10/2018 cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” là có căn cứ. Đối với hành vi phạm tội ngày 08/10/2018 có dấu hiệu tội “Cướp tài sản”. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo phạm tội đơn giản, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt, các bị cáo phạm tuổi ở độ tuổi vị thành niên đều mới hơn 15 tuổi, còn bị hại mới hơn 14 tuổi. Cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo VN 24 tháng tù, bị cáo ĐH 18 tháng tù là phù hợp. Nên xét thấy không cần thiết phải hủy án sơ thẩm. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và người đại diện cho các bị cáo, đại diện hợp pháp cho bị hại. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Về hành vi ngày 03/10/2018 chưa cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”, nên đề nghị xem xét việc áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Tài sản chiếm đoạt tài sản có giá trị không lớn nên cần áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị cáo. Các bị cáo đều phạm tội mới hơn 15 tuổi hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn, các bị cáo thiếu sự chăm sóc của bố mẹ. Gia đình bị cáo VN có chú là liệt sỹ. Đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo đưởng hưởng mức án cải tạo không giam giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo và Người đại diện hợp pháp cho các bị cáo và của Người đại diện hợp pháp cho bị hại trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo Trần VN, Nguyễn ĐH và của Người bị hại tại phiên tòa, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Đối với hành vi phạm tội ngày 03/10/2018 thì Trần VN có hành vi cưỡng đoạt tài sản của cháu Chu VH.

Đối với hành vi của Trần VN và Nguyễn ĐH ngày 08/10/2018 đối với cháu Chu VH thì VN và ĐH có hành vi dùng tay, chân đánh vào đầu, mặt cháu VH để chiếm đoạt số tiền 50.000đồng của cháu VH. Hành vi của VN và ĐH có dấu hiệu của tội cướp tài sản. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử sơ thẩm lại xét xử các bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” là không đúng tội danh. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo và đại diện hợp pháp cho các bị cáo có kháng cáo xin cho các bị cáo được hưởng án treo; đại diện hợp pháp cho bị hại có kháng cáo xin cho các bị cáo được hưởng án treo, không có kháng cáo, kháng nghị tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét hủy án sơ thẩm để xét xử lại đối với 2 bị cáo. Nên cần kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét và quyết định.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo và đại diện hợp pháp cho các bị cáo, kháng cáo của đại diện hợp pháp cho bị hại, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ phạm tội và xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Các bị cáo phạm tội ở tuổi vị thành niên, nhân thân chưa có tiên án tiền sự, đã bồi thường khắc phục hậu quả, bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Bị cáo VN có tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần để xử phạt bị cáo VN 24 tháng tù, ĐH 18 tháng tù là đã xem xét chiếu cố cho các bị cáo nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và đại diện hợp pháp cho các bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị hại.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần VN, Nguyễn ĐH và của Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Trần VN, Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn ĐH và kháng cáo của Người đại diện hợp pháp cho bị hại cháu Chu VH. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 74/2019/HS-ST ngày 15/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội về phần quyết định và hình phạt.

Tuyên bố: bị cáo Trần VN, Nguyễn ĐH phạm tội "Cưỡng đoạt tài sản" Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 170; điểm b, s, khoản 2 Điều 51 và các Điều 54; 90; 91; 101 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Trần VN, 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn thù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 170; điểm b, s, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và các Điều 54; 90; 91; 101 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn ĐH 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị đi thi hành án.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vê án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Mỗi Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí Hình sự phúc thẩm.

Bn án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 662/2019/HS-PT ngày 05/09/2019 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:662/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về