Bản án 666/2017/DS-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 666/2017/DS-ST NGÀY 25/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 25 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 273/2017/TLST-DS ngày 19 tháng 6 năm 2017 về “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1854/2017/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 2076/2017/QĐST-DS ngày 06 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần V; địa chỉ trụ sở: Đường L, phường H, quận Đ, Thành phố Hà Nội; địa chỉ chi nhánh: Đường A, Phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lương Thị Thanh T, sinh năm 1990; cư trú tại: Đường C, Phường Q, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Văn bản ủy quyền số 1536/2017/UQ- GĐK-TDTD ngày 23/5/2017 và số 18/2017/UQ-CT ngày 13/3/2017), (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Bùi Phước L, sinh năm 1971; cư trú tại: Đường P, Phường K, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 23 tháng 5 năm 2017 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Ngân hàng Thương mại cổ phần V có bà Lương Thị Thanh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 03/9/2014, ông Bùi Phước L ký hợp đồng tín dụng số 20140912-100116-0019 với Ngân hàng Thương mại cổ phần V để vay số tiền 29.400.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi suất thỏa thuận là 3,75%/tháng, thanh toán vào ngày 13 hàng tháng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, ông Bùi Phước L có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc và lãi trong 24 tháng với tổng số tiền 45.091.000 đồng, 23 tháng đầu ông Bùi Phước L thanh toán mỗi tháng là 1.880.000 đồng, tháng cuối cùng ông Bùi Phước L thanh toán 1.851.000 đồng, thời gian bắt đầu thực hiện việc thanh toán từ ngày 13/10/2014.

Thực hiện hợp đồng, ông Bùi Phước L đã nhận đủ số tiền vay 29.400.000 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V tổng số tiền là 21.152.000 đồng. Từ ngày 29/01/2016, ông Bùi Phước L không thanh toán tiền nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V nữa.

Ngân hàng Thương mại cổ phần V đã nhiều lần nhắc nhở ông Bùi Phước L trả nợ còn lại nhưng ông Bùi Phước L vẫn không trả. Ngân hàng Thương mại cổ phần V khởi kiện ông Bùi Phước L và yêu cầu ông Bùi Phước L phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V các khoản nợ còn lại theo hợp đồng tín dụng nêu trên như sau: Nợ gốc là 13.697.800 đồng, tiền nợ lãi là 10.241.200 đồng. Tổng cộng nợ gốc và lãi là: 23.939.000 đồng.

Thời hạn thanh toán: Thanh toán một lần ngay sau khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Tiền lãi phát sinh do chậm thi hành án (nếu có) thì Ngân hàng Thương mại cổ phần V yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, Ngân hàng không yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa để triệu tập ông Bùi Phước L tới Tòa án để lấy lời khai, tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa xét xử nhưng ông Bùi Phước L không đến, do đó Tòa án không lấy lời khai của ông Bùi Phước L cũng như không tiến hành hòa giải giữa nguyên đơn và bị đơn được.

Tại phiên Tòa hôm nay nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu như trên, bị đơn vắng mặt không có lý do.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh:

Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng người tham gia tố tụng. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

Về nội dung: Ngân hàng Thương mại cổ phần V đã ký hợp đồng tín dụng với ông Bùi Phước L theo như nội dung vụ án đã trình bày, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần V là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về tố tụng:

Quyền khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Ông Bùi Phước L có vay tiền của Ngân hàng Thương mại cổ phần V có ký hợp đồng tín dụng, do đó có cơ sở xác định giữa ông Bùi Phước L và Ngân hàng Thương mại cổ phần V có giao kết hợp đồng dân sự vay tài sản, đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng. Do ông Bùi Phước L không trả tiền đúng hạn nên Ngân hàng Thương mại cổ phần V khởi kiện. Ông Bùi Phước L cư trú tại quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về người tham gia tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Giấy triệu tập đương sự triệu tập ông Bùi Phước L tới Tòa án để giải quyết vụ án nhưng ông Bùi Phước L vắng mặt không có lý do.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa kèm Giấy triệu tập đương sự cho ông Bùi Phước L, nhưng tại phiên tòa hôm nay, ông Bùi Phước L vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ Điều 227, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn ông Bùi Phước L.

 [2].Về yêu cầu của các đương sự:

Đối với yêu cầu của Ngân hàng Thương mại cổ phần V, Hội đồng xét xử nhận thấy: Căn cứ vào hợp đồng tín dụng số 20140912-100116-0019 ngày 03/9/2014 được ký giữa ông Bùi Phước L với Ngân hàng Thương mại cổ phần V cho thấy việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là có thật, nội dung mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật tại các điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nêu trên và bảng kê chi tiết nợ tiền gốc và lãi thể hiện ông Bùi Phước L có vay của Ngân hàng Thương mại cổ phần V số tiền 29.400.000 đồng, mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi suất trong hạn là 3,75%/tháng, thời hạn vay 24 tháng, thanh toán vào ngày 13 hàng tháng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, ông Bùi Phước L có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc và lãi trong 24 tháng với tổng số tiền 45.091.000 đồng, 23 tháng đầu ông Bùi Phước L thanh toán mỗi tháng là 1.880.000 đồng, tháng cuối cùng ông Bùi Phước L thanh toán 1.851.000 đồng. Thực hiện hợp đồng, ông Bùi Phước L đã nhận đủ số tiền vay và đã thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V tổng số tiền là 21.152.000 đồng. Từ ngày 29/01/2016, ông Bùi Phước L không thanh toán tiền nợ cho nguyên đơn nữa. Như vậy, theo nguyên đơn yêu cầu thì bị đơn còn thiếu nguyên đơn khoản nợ còn lại là 23.939.000 đồng (trong đó nợ gốc là 13.697.800 đồng và nợ lãi là 10.241.200 đồng). Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả khoản tiền trên làm một lần ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trình bày của đương sự, xét thời điểm giao kết và thực hiện hợp đồng, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khỏan 2 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Trường hợp có quy định khác nhau giữa luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng thì áp dụng theo quy định của Luật này”, theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”.

Hội đồng xét xử nhận định đối với hợp đồng vay mà một bên là tổ chức tín dụng thì lãi suất của hợp đồng vay được thực hiện theo thỏa thuận. Hội đồng xét xử xét thấy lãi suất của hợp đồng tín dụng số 20140912-100116-0019 ngày 03/9/2014 mà các bên đã ký kết phù hợp với quy định của pháp luật. Do ông Bùi Phước L vi phạm nghĩa vụ trả nợ quy định trong hợp đồng gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nên Ngân hàng Thương mại cổ phần V khởi kiện, yêu cầu thu hồi nợ là có cơ sở pháp luật.

Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần V đối với việc buộc bị đơn ông Bùi Phước L phải trả một lần ngay sau khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho nguyên đơn số tiền nợ còn lại 23.939.000 đồng (trong đó nợ gốc là 13.697.800 đồng và nợ lãi là 10.241.200 đồng).

Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần V.

 [3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án, yêu cầu của Ngân hàng Thương mại cổ phần V được chấp nhận nên ông Bùi Phước L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.196.950 đồng đối với khoản nợ mà ông Bùi Phước L phải trả là 23.939.000 đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V số tiền 598.475 đồng mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2016/0018727 ngày 12 tháng 6 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 150 Điều 177, Điều 203, Điều 217, Điều 218, Điều 219, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 361, 305, 471, Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005; Căn cứ Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Căn cứ Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 và Điều 48 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần V.

- Buộc ông Bùi Phước L chịu trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V số tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng số 20140912-100116-0019 ngày 03/9/2014 là 23.939.000 (Hai mươi ba triệu chín trăm ba mươi chín nghìn) đồng, trong đó: Tiền nợ gốc là 13.697.800 (Mười ba triệu sáu trăm chín mươi bảy nghìn tám trăm) đồng, tiền nợ lãi là 10.241.200 (Mười triệu hai trăm bốn mươi mốt nghìn hai trăm) đồng.

Thời hạn thanh toán: Trả một lần ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật, thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ khi Ngân hàng Thương mại cổ phần V có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Bùi Phước L chưa trả hết số tiền nêu trên thì hàng tháng ông Bùi Phước L còn phải trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2- Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bùi Phước L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 1.196.950 (Một triệu một trăm chín mươi sáu nghìn chín trăm năm mươi) đồng đối với khoản nợ mà ông Bùi Phước L phải trả là 23.939.000 (Hai mươi ba triệu chín trăm ba mươi chín nghìn) đồng.

Ngân hàng Thương mại cổ phần V được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 598.475 (Năm trăm chín mươi tám nghìn bốn trăm bảy mươi lăm) đồng theo biên lai thu số AA/2016/0018727 ngày 12 tháng 6 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

3- Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Bùi Phước L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 666/2017/DS-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:666/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về