Bản án 67/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN HUYỆN SÓC SƠN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 67/2018/DS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 395/2018/TLST-HNG ngày 14 tháng 8 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2018/QĐXX-ST ngày 29 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1 . Nguyên đơn : ChPhạm Thị T, sinh 1981 Nơi ĐKHKTT: Phòng x, phòng y, Viện z, phường Láng H, quận Đống Đa, TP Hà Nội.

Nơi cư trú: Phòng phòng a, CT5b khu đô thị c, quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội

2 . Bị đơn : Anh Nguyễn Đăng T1, sinh 1978 Nơi cư trú: Thôn Hương G, xã Phú C, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội Có mặt chị T, vắng mặt anh T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 22.6.2018 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn là chị Phạm Thị T trình bày:

Anh Nguyễn Đăng T1 và chị lấy nhau tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết tại UBND phường Láng H, quận Đống Đa, TP Hà Nội ngày 02.02.2008. Sau khi lấy nhau vợ chồng sống riêng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong lối sống, quản lý kinh tế gia đình, chăm sóc con nên thường xuyên cãi nhau. Đầu năm 2014 chị làm đơn xin ly hôn anh T1 ra Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn nhưng do gia đình hai bên thuyết phục và nghĩ đến con nên chị rút đơn về để vợ chồng chăm sóc con. Tuy nhiên sau đó vợ chồng tiếp tục mâu thuẫn, không thể hòa hợp được nên tháng 4.2017 anh chị sống ly thân. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị ly hôn anh T1.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Đăng Kh sinh ngày 25.10.2009. Hiện nay cháu đang ở với chị, ly hôn chị đề nghị tiếp tục nuôi cháu, không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang làm nhân viên Trung tâm sức khỏe sinh sản cộng đồng, thu nhập trung bình 15.900.000đ/tháng.

Về tài sản, nhà ở, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, công sức, nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn là anh Nguyễn Đăng T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh không đến làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án.

* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử, chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng trình tự, thủ tục tố tụng. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, cho chị T được ly hôn anh T1; Về con chung: giao con chung là Nguyễn Đăng Kh cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết; Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liêu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án anh T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến làm việc. Tại phiên tòa ngày 19 tháng 11 năm 2018 anh được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Tòa án hoãn phiên tòa và ấn định phiên tòa xét xử vào hồi 14h00 ngày 28 tháng 11 năm 2018 Tòa án đã tiến hành tống đạt giấy triệu tập hợp lệ cho anh T1 nhưng tại phiên tòa hôm nay anh vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh T1.

[2] Về nội dung: Chị Phạm Thị T và anh Nguyễn Đăng T1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Láng H, quận Đống Đa, TP Hà Nội ngày 02 tháng 02 năm 2018 tại số 38, quyển số 01. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh T1, chị T chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn tới thường xuyên cãi nhau. Đầu năm 2014 chị T làm đơn xin ly hôn anh T1 nhưng sau đó vì con nên chị rút đơn. Tuy nhiên anh chị vẫn không khắc phục được mâu thuẫn nên đã sống ly thân từ tháng 4.2017. Bản thân anh T1 biết chị T xin ly hôn nhưng anh không hợp tác với Tòa án, không đến Tòa án để bảo vệ cuộc hôn nhân của mình chứng tỏ mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là hoàn toàn phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Anh T1 và chị T có 01 con chung là Nguyễn Đăng Kh sinh ngày 25.10.2009. Ly hôn chị T đề nghị được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng nuôi con của chị T, HĐXX thấy: Từ khi anh, chị sống ly thân, cháu Kh do chị T nuôi dưỡng, hiện nay sức khỏe cháu bình thường, nguyện vọng của cháu là tiếp tục được ở với mẹ. Hiện nay chị T đang làm nhân viên Trung tâm sức khỏe sinh sản cộng đồng, thu nhập trung bình 15.900.000đ/tháng, đảm bảo việc nuôi dưỡng cháu Kh. Do đó việc giao cháu Kh cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho cháu Kh.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con, Tòa án không lấy được lời khai của anh T1 nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nhà ở, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, công sức, nợ: Chị T, anh T1 đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 146, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Xử:

1. Chị Phạm Thị T được ly hôn anh Nguyễn Đăng T1.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Đăng Kh sinh ngày 25.10.2009 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T1 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của tòa án.

Anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nhà ở, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, công sức, nợ: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, chị được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn theo biên lai số 00001262 ngày 14.8.2018.Chị T có quyền kháng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2018/DS-ST ngày 28/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:67/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về