Bản án 67/2019/HS-ST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Huyền T, sinh ngày 12/6/1998 tại tỉnh Bạc Liêu. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Mỹ Trường 2, xã Hưng Phú, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu; Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ.; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Thơ và bà Nguyễn Kim T2; không có chồng con; tiền án: không; tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 21/11/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Nguyễn Thị Kim L, sinh năm: 1977. (có đơn xin vắng mặt).

- Ông Nguyễn Hữu T1, sinh năm: 1977. (có đơn xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ: B12/5D1 ấp 2, xã A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Lương Thanh L2, sinh năm 1982 (có mặt);

Địa chỉ: ấp 2, xã A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1989 (có mặt);

Địa chỉ: B12/6 ấp 2, xã A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: 

Tháng 9/2018 Nguyễn Thị Huyền T xin vào làm nhân viên tại quán cà phê Bảo H tại địa chỉ: B12/5D1 ấp 2, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Hữu T1 và bà Nguyễn Thị Kim Llàm chủ. T được bà L cho ăn ở tại quán.

Khoảng 19 giờ ngày 16/11/2018, biết vợ chồng bà L ông Tâm không có ở quán nên T nảy sinh ý định vào phòng ngủ của bà L tìm tài sản để lấy trộm đem bán lấy tiền tiêu xài. T đi đến phòng của bà L kiểm tra thì thấy cửa phòng đã khóa nên đi lại nhà vệ sinh lấy chìa khóa đang gắn trên ổ khóa đến mở cửa phòng ngủ của bà L. T đi vào trong phòng mở hộc tủ nhựa lấy chìa khóa, đến mở két sắt và lấy toàn bộ số tiền, vàng của bà L gồm: 01 cọc tiền 50.000.000 đồng được cột bằng dây thun, 01 xấp tiền 20.000.000 đồng (toàn bộ là tiền mệnh giá 500.000 đồng) trong bóp da, 03 chiếc nhẫn vàng (01 chiếc nhẫn trơn, trọng lượng 03 chỉ vàng 9999; 01 chiếc nhẫn trơn trọng lượng 05 chỉ vàng 9999 và 01 chiếc nhẫn kiểu vàng 18K, trên nhẫn có đính hạt đá màu trắng) trong 01 cái hộp rồi đem toàn bộ số tài sản này về phòng của T cất giữ. Đến tối ngày 18/11/2018, T đến cửa hàng điện thoại Thế giới di động địa chỉ 1527 Đường A, ấp 1, xã A do ông Thới Ngọc T2 quản lý và mua 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9 với giá 7.600.000 đồng. Sau đó, T đến cửa hàng xe máy TQ do ông Vũ Văn Q làm chủ tại địa chỉ B5/3 Đường B, ấp 2, xã A, huyện Bình Chánh, mua 01 xe mô tô Honda Vision mới với giá 41.500.000 đồng và nhờ cha dượng là Lương Thanh L2 đứng tên mua và đăng ký xe giùm vì T đã làm mất giấy chứng minh nhân dân. Sau đó, T đến tiệm vàng Kim Ngọc Trí do ông Nguyễn Hữu Trí làm chủ tại địa chỉ 96B đường C, khu phố 6, Phường D, Quận E, mua 01 chiếc nhẫn vàng 9999 trọng lượng 01 chỉ với giá 3.500.000 đồng; Đồng thời chuộc lại 01 sợi dây chuyền vàng với giá 4.000.000 đồng mà T đã thế chấp tại đây.

Chiều ngày 19/11/2018, T đem chiếc nhẫn trơn, trọng lượng 03 chỉ vàng 9999 đến tiệm vàng F do ông Nguyễn Hoàng S làm chủ tại địa chỉ 1451A đường A, ấp 1, xã A, huyện Bình Chánh, bán được số tiền 10.000.000 đồng. Đến tối ngày 19/11/2018, T đến tiệm vàng G do ông Nguyễn Trọng H làm chủ tại địa chỉ 96F đường A, Khu phố 6, Phường B, Quận C, mua một chiếc lắc tay trọng lượng 02 chỉ vàng 24K với giá 7.400.000 đồng và 01 sợi dây chuyền vàng 18K với giá 3.000.000 đồng. Đồng thời, T thế chấp chiếc nhẫn có đính hột màu trắng mà T trộm được của bà L cầm với giá 500.000 đồng. Chiếc nhẫn vàng 05 chỉ vàng 9999 còn lại, T nhờ dì ruột là bà Nguyễn Thị N đến tiệm vàng đổi giúp T chiếc nhẫn khác cùng trọng lượng nhưng kích thước nhỏ hơn để T đeo; Đồng thời, T đưa cho bà N 200.000 đồng nhờ gửi về quê cho bà ngoại của T ở Cần Thơ.

Chiều ngày 20/11/2018, bà L kiểm tra két sắt thì phát hiện bị mất số tiền 70.000.000 đồng và 03 chiếc nhẫn nên đến Công an xã A trình báo. Qua truy xét, Công an xã A mời T về trụ sở làm việc và T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của bà L như trên. Công an xã A lập hồ sơ ban đầu và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thụ lý.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Thị Huyền T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên, phù hợp với lời khai của bị hại, người biết việc và các chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Bản kết luận định giá tài sản số 219/HĐĐGTTHS-TCKH ngày 31/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh kết luận: 01 chiếc nhẫn trơn, trọng lượng 05 chỉ vàng 9999 trị giá 17.080.500 đồng; 01 chiếc nhẫn trơn, trọng lượng 03 chỉ vàng 9999 trị giá 10.248.300 đồng; 01 chiếc nhẫn kiểu có đính hột màu trắng vàng 18K, trọng lượng 3,2g không định giá được do không xác định được trọng lượng vàng, trọng lượng hạt đá giả. Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thị Huyền T chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Kim L là 107.328.800 đồng.

Ngoài ra, T còn khai nhận vào ngày 14/11/2018 và ngày 15/11/2018, T đã 02 lần vào phòng ngủ của vợ chồng bà L lấy trộm tiền, mỗi lần lấy 5.000.000 đồng. Đến ngày 16/11/2018, T đem toàn bộ số tiền này đi mua vàng nhưng trên đường đi thì bị đánh rơi mất tiền.

Vật chứng thu giữ:

- 01 két sắt bằng kim loại; 03 chìa khóa bằng kim loại; 01 xe mô tô Honda Vision biển số 67D1-821.20 và giấy đăng ký xe; 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9; 01 chiếc lắc vàng; 03 chiếc nhẫn bằng kim loại vàng; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại vàng; Số tiền Việt Nam 854.000 đồng. Tất cả các vật chứng này do T trộm cắp và sử dụng số tiền trộm cắp được của bà L để mua. Bà L đề nghị được nhận lại toàn bộ số tài sản này. Nên cơ quan điều tra đã trả lại các vật chứng này cho bà L.

- 01 cái bóp da và 01 chiếc nhẫn bằng kim loại vàng, đây là tài sản riêng của bị can T. Cơ quan điều tra đã trả lại cho mẹ ruột bị can T là bà Nguyễn Kim T2.

Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 20 tháng 2 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Huyền T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Huyền T từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Huyền T khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thị Huyền T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống như nội dung cáo trạng đã truy tố. Vào ngày 16/11/2018, biết vợ chồng bà L ông T1 không có ở quán nên T lén lút vào phòng ngủ của bà L rồi mở hộc tủ nhựa lấy chìa khóa đến mở két sắt và lấy toàn bộ số tiền, vàng của bà L gồm: 01 cộc tiền 50.000.000 đồng được cột bằng dây thun, 01 xấp tiền 20.000.000 đồng (toàn bộ là tiền mệnh giá 500.000 đồng) trong bóp da, 03 chiếc nhẫn vàng (01 chiếc nhẫn trơn, trọng lượng 03 chỉ vàng 9999; 01 chiếc nhẫn trơn trọng lượng 05 chỉ vàng 9999 và 01 chiếc nhẫn kiểu vàng 18K, trên nhẫn có đính hạt đá màu trắng). Lời nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người bị hại, vật chứng vụ án, những chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được luật hình sự bảo vệ. Khi thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì vụ lợi bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Theo bản kết luận định giá tài sản số 219/HĐĐGTTHS-TCKH ngày 31/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh kết luận xác định tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Thị Huyền T chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Kim L là 107.328.800 đồng (một trăm lẻ bảy triệu ba trăm hai mươi tám ngàn tám trăm đồng). Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Thị Huyền T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và người bị hại đã có đơn bãi nại cho bị cáo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[4] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo T khai nhận vào ngày 14/11/2018 và ngày 15/11/2018 T đã hai lần lẻn vào phòng ngủ của vợ chồng bà L lấy trộm tiền, mỗi lần 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) nhung đã làm rơi mất, bà L không xác định được số tiền bị mất trộm vào ngày 14-15/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh cũng không thu hồi được số tiền này nên chưa đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội từ 2 lần trở lên”, tuy nhiên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt đối với bị cáo.

[5] Đối với ông Thới Ngọc T2 là người bán điện thoại di động Oppo F9 cho T; ông Vũ Văn Qlà người bán xe môtô Honda Vision biển số 67D1- 821.20 cho T; ông Nguyễn Hữu T3(chủ tiệm vàng E) là người nhận tiền của T trả nợ để giải chấp và bán vàng cho T; ông Nguyễn Hoàng S(chủ tiệm vàng F là người mua vàng của T; ông Nguyễn Trọng Hiếu (chủ tiệm vàng G) là những người bán vàng với T và đổi vàng cho bà N; bà Nguyễn Thị N là người đi đổi vàng giúp T; Ông Lương Thanh L2 là người đứng tên đăng ký xe môtô Honda Vision biển số 67D1-821.20 giúp T, tất cả những đương sự trên không biết tài sản mà T giao dịch là do T Trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh không xử lý là có căn cứ.

[6] Về vật chứng vụ án:

[7] 01 két sắt bằng kim loại; 03 chìa khóa bằng kim loại; 01 xe mô tô Honda Vision biển số 67D1-821.20 và giấy đăng ký xe; 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9; 01 chiếc lắc vàng; 03 chiếc nhẫn bằng kim loại vàng; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại vàng; số tiền 854.000 đồng (tám trăm năm mươi bốn ngàn đồng). Tất cả các vật chứng này do bị cáo trộm cắp mà có và sử dụng tài sản trộm cắp được của bà L để mua, bà L đề nghị được nhận lại toàn bộ số tài sản này và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả lại các vật chứng này cho bà L nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] 01 cái bóp da và 01 chiếc nhẫn bằng kim loại vàng, đây là tài sản riêng của bị can T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả lại cho mẹ ruột bị cáo T là bà Nguyễn Kim T2 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về trách nhiệm dân sự: bị hại bà Nguyễn Thị Kim L, ông Nguyễn Hữu T1 đã nhận lại toàn bộ tài sản mà bị cáo T dùng số tiền trộm cắp được để mua và được gia đình bị cáo đã bồi thường thêm số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), bà L và ông T1 không có yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại gì thêm và có đơn yêu cầu vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo cũng như xử lý vật chứng vụ án và chấp nhận đề nghị của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[12] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Huyền T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Huyền T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/11/2018.

Về vật chứng: Ghi nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả toàn bộ vật chứng cho bị hại và bị cáo.

Về dân sự: Ghi nhận việc bị hại Nguyễn Thị Kim L, ông Nguyễn Hữu T1 không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, ông Lâm, bà Nhanh có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; ông Tâm và bà L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 28/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về