Bản án 68/2017/HSST ngày 31/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 68/2017/HSST NGÀY 31/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 8 năm 2017, tại phòng xét xử, trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số:  58/2017/HSST, ngày 27 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

1. Lê Văn H, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1973, tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

Dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 0/12; con ông: Lê Văn Ch (đã chết); và bà: Hoàng Thị V, sinh năm 1958; có 07 anh chị em, bị cáo là thứ nhất; vợ: Lý Thị H, sinh năm 1975; con: Có 04 con, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15 tháng 5 năm 2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Lê Văn H: Bà Chu Bích Thu – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Văn H: Ông Nguyễn Ngọc Khiêm – Công ty luật TNHH Tuệ Lâm, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người bị hại: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1, Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đ.

Địa chỉ: Số 58, đường X, khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Người đại diện theo ủy quyền ông Phạm Văn Công – Cán bộ phòng LNTH Công ty, theo giấy ủy quyền số 232 UQ/CT-TCHC ngày 15/4/2017. Có mặt.

2, Anh Triệu Văn T, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

3, Anh Lâm Văn M, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

4, Chị Nông Thị Ng, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

5, Chị Vũ Thị N, sinh năm 1965.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

6, Chị Hoàng Thị E, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

7, Chị Lý Thị H, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 16 tháng 11 năm 2015, anh Hoàng Văn H, trú tại Thôn L, xã T, huyện H ký hợp đồng số 164 giao - nhận khoán kinh doanh rừng chồi sản xuất theo chu kỳ kinh doanh mô hình 3 với Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đ nhận giao khoán diện tích 0,7 ha rừng chồi bạch đàn thuộc khoảnh 32, lô e 61 khu vực khe H, Thôn C, xã T, huyện H.

Khoảng đầu tháng 3 năm 2017, Lê Văn H, trú tại Thôn C, xã T, huyện H cho rằng gia đình mình đã từng được canh tác trên diện tích đất rừng tại khoảnh 32, lô e 61, khe H, Thôn C, xã T trước khi Nhà nước giao quyền sử dụng cho Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đ nên Hiệp nảy sinh ý định bán số cây chồi bạch đàn tại khoảnh 32, lô e 61, khe H cho người khác. Lê Văn H gặp Triệu Văn T, trú tại Thôn Đ, xã T, huyện H đang tìm mua cây bạch đàn tại khu vực khe H; H nói với T là có đồi cây muốn bán, sau đó Lê Văn H đưa Triệu Văn T đến khu đồi thuộc khoảnh 32, lô e 61 khu vực khe H, Thôn C, xã T của Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Đ đã giao khoán cho Hoàng Văn H để chỉ ranh giới và thỏa thuận giá bán là 2.500.000 đồng.

Sau khi trả tiền cho Lê Văn H, Triệu Văn T thuê một số người ở cùng thôn gồm Lâm Văn M, Nông Thị Ng, Vũ Thị N và Hoàng Thị E, vào chặt cây lấy gỗ và vận chuyển về nhà của T, tổng số cây đã chặt là 234 cây. Toàn bộ số gỗ khai thác được, Triệu Văn T đã bán cho một người không quen biết với giá 4.500.000 đồng.

Ngày 07/3/2017, Hoàng Văn H phát hiện khu rừng cây mầm chồi bạch đàn của nhà mình bị cắt trộm nên đã làm đơn trình báo đến Công an xã T. Ngày 30 tháng 3 năm 2017, Ban Công an xã T báo cáo vụ việc đến Công an huyện H. Cùng ngày 30/3/2017, Lê Văn H đến Công an huyện H giao nộp số tiền 2.500.000 đồng bán cây cho Triệu Văn T có được. Ngày 11/4/2017, Triệu Văn T đến giao nộp một chiếc cưa máy vỏ màu cam; một chiếc thước loại thước rút màu vàng; một con dao quắm tra cán gỗ dài 58 cm là những dụng cụ T dùng để khai thác cây mua của H và số tiền 4.500.000 đồng T bán số gỗ trên có được.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 28 tháng 4 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận 234 cây chồi bạch đàn năm thứ ba có tổng trị giá 6.174.000 đồng; trong đó 207 cây đường kính gốc trung bình 8,5 cm đến 10 cm có trị giá 4.554.000 đồng, 27 cây đường kính gốc trung bình từ trên 10 cm đến 19 cm có trị giá 1.620.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tạm giữ: 02 đoạn gốc cây chồi bạch đàn trong đó 01 đoạn dài 9,5 cm, đường kính mặt cắt 8,5 cm; một đoạn dài 8,8 cm, đường kính mặt cắt 19 cm là những đoạn gốc của cây chồi bạch đàn được thu tại hiện trường. Số tiền 2.500.000 đồng của Lê Văn H. Một chiếc cưa máy vỏ màu cam, một chiếc thước loại thước rút màu vàng, một con dao quắm tra cán gỗ dài 58 cm và số tiền 4.500.000 đồng của Triệu Văn T.

Đối với số gỗ mua với Lê Văn H, Triệu Văn T đã bán cho một người không quen biết nên không có cơ sở truy tìm.

Về dân sự: Anh Hoàng Văn H yêu cầu Lê Văn H phải bồi thường số tiền 23.400.000 đồng, Lê Văn H không chấp nhận mức bồi thường của anh H yêu cầu và chỉ chấp nhận bồi thường theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện H đã kết luận.

Bản Cáo trạng số 63/VKS-HS, ngày 26 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa: Bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của mình và thừa nhận hành vi phạm tội. Người bị hại anh Hoàng Văn H yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do số cây bị mất là 6.174.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về phần dân sự, về phần hình phạt yêu cầu xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật. Bị cáo chấp nhận bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền 6.174.000 đồng.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản, về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, p khoản 1 Điều 46; các Điều 33, 45 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về phần dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585, 586, 589, 357 Bộ luật dân sự 2015, đề nghị công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại, bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại là 6.174.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; các điểm b, c, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 2.500.000 đồng của Lê Văn H phạm tội mà có.

Tịch thu tiêu hủy: 02 đoạn gốc cây chồi bạch đàn trong đó 01 đoạn dài 9,5 cm, đường kính mặt cắt 8,5 cm; một đoạn dài 8,8 cm, đường kính mặt cắt 19 cm.

Trả lại cho người liên quan anh Triệu Văn T: 01 chiếc cưa máy vỏ màu cam, một chiếc thước loại thước rút màu vàng, một con dao quắm tra cán gỗ dài 58 cm và số tiền 4.500.000 đồng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.

XÉT THẤY

Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, khoảng đầu tháng 3 năm 2017, bị cáo Lê Văn H nảy sinh ý định khai thác số cây bạch đàn của gia đình anh Hoàng Văn H để bán lấy tiền nên Hiệp đã lợi dụng khu rừng cây cách xa nhà của anh Hoàng Văn H để bán cho Triệu Văn T 234 cây bạch đàn tại khoảnh 32, lô e 61 khu vực khe H, Thôn C, xã T, huyện H của Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Lâm nghiệp Đ giao khoán cho anh Hoàng Văn H theo hợp đồng số 164, ngày 16 tháng 11 năm 2015 giao – nhận khoán kinh doanh rừng chồi sản xuất theo chu kỳ kinh doanh mô hình ba. 234 cây bạch đàn nói trên có tổng trị giá là 6.174.000 đồng. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lê Văn H phạm tội "Trộm cắp tài sản" tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Cáo trạng số 63/VKS-HS, ngày 26 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

Đây là vụ án trộm cắp tài sản hậu quả xẩy ra là ít nghiêm trọng, bị cáo Lê Văn H là người có đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn công cộng của địa phương, tạo dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật để giáo dục cho chính bị cáo và những người khác có ý định thực hiện hành vi tương tự.

Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo không biết chữ, kém hiểu biết về pháp luật nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung, nhưng cũng xem xét đến nhân thân các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội nhưng cũng xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật tự giác cải tạo tốt, để trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự nên áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là đúng với quy định của pháp luật.

Đối với Triệu Văn T là người mua cây với Lê Văn H; Lâm Văn M, Nông Thị Ng, Vũ Thị N và Hoàng Thị E là những người được T thuê chặt cây tại khoảnh 32, lô e 61, khe H, Thôn C, xã T; tuy nhiên T, M, Ng, N và E đều không biết số cây trên do H trộm cắp của người khác nên không đặt vấn đề xử lý

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo và người bị hại đã tự thỏa thuận bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho người bị hại là 6.174.000 đồng là hoàn toàn tự nguyện và đúng với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại. Bị cáo Lê Văn H phải bồi thường cho người bị hại anh Hoàng Văn H là 6.174.000 đồng.

Về vật chứng của vụ án đã làm rõ: 02 đoạn gốc cây chồi bạch đàn trong đó 01 đoạn dài 9,5 cm, đường kính mặt cắt 8,5 cm; một đoạn dài 8,8 cm, đường kính mặt cắt 19 cm là những đoạn gốc của cây chồi bạch đàn được thu tại hiện trường, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

Số tiền 2.500.000 đồng của Lê Văn H phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Một chiếc cưa máy vỏ màu cam, một chiếc thước loại thước rút màu vàng, một con dao quắm tra cán gỗ dài 58 cm và số tiền 4.500.000 đồng là của Triệu Văn T sử dụng để khai thác và bán số cây mua của H có được; tuy nhiên khi mua, Triệu Văn T không biết số cây trên là H bán của người khác. Tại phiên tòa Triệu Văn T xin lại nên trả lại cho Triệu Văn T.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, các Điều 33, 45, 47 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 05 (năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam, ngày 15 tháng 5 năm 2017.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585, 586, 589, 357 Bộ luật dân sự.

Bị cáo Lê Văn H phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho người bị hại anh Hoàng Văn H số tiền là 6.174.000 đồng (sáu triệu một trăm bẩy mươi tư nghìn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; các điểm b, c, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền: 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) của bị cáo Lê Văn H.

Tịch thu tiêu hủy: 02 đoạn gốc cây chồi bạch đàn trong đó 01 đoạn dài 9,5 cm, đường kính mặt cắt 8,5 cm; một đoạn dài 8,8 cm, đường kính mặt cắt 19 cm.

Trả lại cho người liên quan anh Triệu Văn T: 01 chiếc cưa máy vỏ màu cam, một chiếc thước loại thước rút màu vàng, một con dao quắm tra cán gỗ dài 58 cm và số tiền 4.500.000 đồng (bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Lạng Sơn lập ngày 31/7/2017); (Theo ủy nhiệm chi ngày 27/7/2017)

5. Về án phí: Áp dụng điều 98, khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 308.700 đồng (ba trăm linh tám nghìn bẩy trăm đồng) tiền án phí dân sự có giá ngạch. Tổng cộng bị cáo Lê Văn H phải chịu 508.700 đồng (năm trăm linh tám nghìn bẩy trăm đồng) tiền án phí để sung quỹ Nhà nước.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2017/HSST ngày 31/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:68/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về