Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 16/11/2018 về ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 68/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2018 VỀ LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 247/2018/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 737/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 789/2018/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; nơi ĐKHKTT: phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: đường A1, phường B1, quận C1, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Ngọc A; nơi ĐKHKTT: đường A2, phường B2, quận C2, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: đường A1, phường B1, quận C1, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ dân sự ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn ngày 12/6/2018, trong bản tự khai, quá trình giải quyết tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2002 chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Ngọc A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Minh Khai, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng ngày 29/11/2002. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2004 giữa hai vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh chị bất đồng quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng nên chị T và anh Ngọc A đã sống ly thân từ tháng 8/2017 đến nay. Sau khi ly thân, hai vợ chồng không còn quan tâm nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Gia đình và bạn bè hai bên đã động viên, khuyên bảo nhưng không có kết quả. Vì mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Ngọc A để giải phóng cho cả hai người.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có hai con chung làHoàng Thị Quỳnh C, sinh ngày 29/01/2003 và Hoàng Nguyên Mi, sinh ngày 24/10/2004. Khi ly hôn, chị T có nguyện vọng xin được nuôi hai con. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị T và anh Ngọc A tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị T và anh Ngọc A không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai và quá trình giải quyết tại Tòa án và tại phiên tòa, bị đơn anh Hoàng Ngọc A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngọc A đồng ý với quan điểm của chị T về điều kiện và quá trình kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2017 đến nay. Anh chị không quan tâm nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Gia đình và bạn bè hai bên đã động viên, khuyên bảo nhưng không có kết quả. Nay chị T có đơn xin ly hôn anh Ngọc A đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Hoàng Thị Quỳnh C, sinh ngày 29/01/2003 và Hoàng Nguyên M, sinh ngày 24/10/2004. Khi ly hôn anh Ngọc A tôn trọng nguyện vọng của các cháu. Nếu các cháu có nguyện vọng ở với chị T anh Ngọc A cũng đồng ý. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị T và anh Ngọc A tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Theo anh Ngọc A vợ chồng phải làm rõ vẫn đề tài sản và chia theo pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Tòa án nghị án đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật khi vắng mặt tại các phiên hòa giải và phiên tòa xét xử lần thứ nhất mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị đơn đã có mặt theo đúng triệu tập của Tòa án.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án đã thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ được thẩmtra công khai tại phiên tòa, đề nghị Tòa án áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị T được ly hôn với anh Ngọc A. Giao hai con Hoàng Thị Quỳnh C và Hoàng Nguyên M cho chị T nuôi; về cấp dưỡng nuôi con, nguyên đơn và bị đơn tự thỏa thuận không yêu cầu nên không đề nghị Tòa án giải quyết; về tài sản chung nguyên đơn không yêu cầu, bị đơn có yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng nhưng trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phía bị đơn không cung cấp được tài liệu vợ chồng có tài sản chung gì nên không có căn cứ. Mặt khác phía nguyên đơn không có yêu cầu chia tài sản cung. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải. Chị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Hoàng Ngọc A cư trú trên địa bàn quận Ngô Quyền nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thời hạn giải quyết vụ án: Vụ án thụ lý ngày 18/6/2018 đến ngày 15/10/2018 có quyết định đưa vụ án ra xét xử là đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Điều kiện và quá trình kết hôn như chị T, anh Ngọc A đã trình bày, hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống, nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính cách không phù hợp. Tại phiên tòa, chị T và anh Ngọc A đều xác định không còn tình cảm với nhau và đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tòa án xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh Ngọc A đã đã đến mức trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn; đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được xét thỏa thuận xin ly hôn giữa chị T và anh Ngọc A hoàn toàn phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh Ngọc A.

Về việc nuôi con: Chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Ngọc A có hai con chung là Hoàng Thị Quỳnh C, sinh ngày 29/01/2003 và Hoàng Nguyên M, sinh ngày 24/10/2004. Hội đồng xét xử xét thấy, chị T và anh Ngọc A thỏa thuận giao hai con chung cho chị T trực tiếp nuôi là phù hợp với quy định của pháp luật và nguyện vọng của hai con. Vì vậy giao hai con Hoàng Thị Quỳnh C, sinh ngày 29/01/2003 và Hoàng Nguyên M, sinh ngày 24/10/2004 cho chị Nguyễn Thị T nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T và anh Ngọc A tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về việc chia tài sản: Nguyên đơn khai nhận giữa nguyên đơn và bị đơn không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn khai nhận quá trình chung sống giữa hai vợ chồng có tài sản chung, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh vợ chồng có tài sản chung gì. Mặt khác phía chị T cho rằng vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này anh Hoàng Ngọc A xuất trình được vợ chồng có tài sản chung thì có thể khởi kiện bằng vụ án khác chia tài sản chung vợ chồng sau ly hôn.

Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; các điều 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Hoàng Ngọc A.

2. Về việc nuôi con: Giao hai con chung là Hoàng Thị Quỳnh C, sinh ngày29/01/2003 và Hoàng Nguyên M, sinh ngày 24/10/2004 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Ngọc A tự thỏa thuận, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí:

Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 14674 ngày 18 tháng 6 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Nguyễn Thị T và anh Hoàng Ngọc A được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

427
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 16/11/2018 về ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:68/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về