Bản án 68/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 68/2019/HSST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 63/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Uông Đình L - Sinh ngày 04/6/1978; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu 3, thị trấn Phong Châu, huyện P, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 1/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Uông Đình T (đã chết); Con bà: Lê Thị T, sinh năm 1934 ; Gia đình có 08 anh em, bị cáo là con thứ bảy; Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1981(đã ly hôn); Con: Có 01 con, sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2010 bị cáo bị đưa vào cơ sở cai nghiệp bắt buộc theo quyết định số 1466/QĐ- UBND ngày 16/7/2010 thời gian là 24 tháng; Bản án số 17/2006/HSST ngày 02/3/2006 của Tòa án nhân dân huyện L xử phạt Uông Đình L 36 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; Bản án số 64/2013/HSST ngày 29/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Thọ xử phạt Uông Đình L 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và án phí HSST 200.000 đồng, L không phải bồi thường dân sự (giá trị tài sản trộm cắp là 2.900.000 đồng), Uông chấp hành xong hình phạt tù, ra trại 12/6/2014, thi hành án phí tháng 01/2014; Bản án số 60/2015/HSST ngày 29/9/2015 của Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt Uông Đình L 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản và án phí 200.000 đồng, L không phải bồi thường dân sự (giá trị tài sản là 1.170.000 đồng). Uông chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 21/03/2016, thi hành án phí tháng 4/2018; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/12/2018 đến ngày 04/01/2019. Hiện nay đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo đang tại ngoại tại đia phương. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 15 giờ 15 phút, ngày 27/12/2018, tại tổ 12A, khu 8, phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, Tổ công tác Công an phường G phát hiện, bắt quả tang Uông Đình L, sinh năm 1978, hộ khẩu thường trú: Khu 3, thị trấn Phong Châu, huyện P, tỉnh Phú Thọ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên người.Vật chứng thu giữ (do L giao nộp): 01 gói giấy có hai mặt đều màu trắng bạc, bên trong gói giấy có chứa chất bột, cục màu trắng. Uông Đình L khai nhận đó là gói ma túy Heroine của L, mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng nêu trên. Ngoài ra, còn thu giữ của L: tiền Việt Nam 95.000 đồng. Công an phường G đã chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V để giải quyết theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành trưng c u giám định đối với vật chứng thu giữ của Uông Đình L. Tại bản Kết luận giám định số 146/KLGĐ ngày 03/01/2019 của Phòng K thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ, kết luận: Chất bột cục màu trắng chứa bên trong gói giấy hai mặt đều màu trắng bạc gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,184 gam, loại Heroine".

*Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự 20, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

Hoàn trả lại 0,085 gam chất bột cục màu trắng sau giám định.

Ti bản cáo trạng số: 73/CT-VKSVT ngày 17 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Uông Đình L về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Uông Đình L phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Uông Đình L từ 18 đến 21 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 27/12/2018 đến ngày 04/01/2019.

* Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo L.

Về xử lý vật chứng của vụ án và án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trước khi hội đồng xét xử vào phòng xử án bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo:

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Uông Đình L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đều thống nhất, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 15 giờ 15 phút, ngày 27/12/2018, tại tổ 12A, khu 8, phường G, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, Uông Đình L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,184 gam ma túy Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị Tổ Công tác công an phường G, thành phố V phát hiện bắt quả tang. Do vậy, Uông Đình L phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Hành vi nêu trên của bị cáo Uông Đình L đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm ...

c/ Heroine, Cocaine, Methamphetamine, MDMA, hoặc XLR -11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm suy thoái nòi giống con người, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện nên bị cáo phải chịu hậu quả về hành vi phạm tội của mình.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng tặng nào nhưng bị cáo có nhân thân xấu đó là bị cáo có 03 tiền án (01 tiền án về tội " Tằng trữ trái phép chất ma túy" và 02 tiền án về tội " Trộm cắp tài sản") đã được xóa án tích và năm 2010 bị cáo đã bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 24 tháng. Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Xét thấy bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội nhưng vẫn cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội đời sống chung của xã hội mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000đồng … hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, nhưng qua xác minh và tại phiên tòa hôm nay xác định bị cáo không có tài sản gì ngoài số tiền 95.000đ cơ quan điều tra thu của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nhưng đó là một phần tài sản của bị cáo nên tich thu sung vào ngân sách nhà nước theo khoản 5 Điều249 Bộ luật Hình sự.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Ma túy là vât nhà nước cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong có số: 146/KLGĐ của phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có: 0,085 gam chất bột cục màu trắng sau giám định là mẫu vật còn lại sau giám định.

[7] Về nguồn gốc số Ma túy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Uông Đình L khai nhận L gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi ở khu vực thị trấn S, huyện S, thành phố Hà Nội để mua ma túy nhưng L không biết tên tuổi và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định được người đã bán ma túy cho L là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Uông Đình L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Tuyên bố bị cáo Uông Đình L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Bị cáo Uông Đình L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, bị cáo được trừ đi 08 (Tám) ngày tạm giữ (từ ngày 27/12/2018 đến ngày 04/01/2019).

Về hình phạt bổ sung: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước của Uông Đình L 95.000đ (Chín mươi lăm ngàn đồng) theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/4/2019.

2.Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 bì niêm phong có số 146/KLGĐ của phòng K thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả bên trong có: 0,085 gam chất bột cục màu trắng hoàn lại sau giám định cùng bao gói gửi giám định theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/4/2019.

3. Về án phí: Bị cáo Uông Đình L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Uông Đình L có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu c u Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:68/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về