Bản án 683/2019/HS-PT ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 683/2019/HS-PT NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 595/2019/TLPT-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Vũ Tiến Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 164/HSST ngày 02/07/2019 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Vũ Tiến Đ, sinh năm 19XX. NHKTT và chỗ ở: Thôn Quả L, xã Thành L, huyện Vụ B, tỉnh Nam Định; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Vũ Nguyên B và bà Vũ Thị Nh; Vợ Nguyễn Hương G; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ 19/03/2019 đến 22/03/2019. Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 22/03/2019 (Có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

1. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 19XX (Vắng mặt tại phiên tòa)

NĐKHKTT: Xã Xuân Ph, huyện Xuân Tr, tỉnh Nam Định

2. Chị Đoàn Thị Như Q, sinh năm 19XX (vắng mặt tại phiên tòa).

NĐ KHKTT: Xã Xuân V, huyện Xuân Tr, tỉnh Nam Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 01h45’ ngày 19/03/2019, Bị cáo Vũ Tiến Đ đi một mình từ nhà tại P310, HH02-1B Thanh H, Xã Cự Kh, quận Hà Đ, thành phố Hà Nội, đến khu vực phường Yên Hòa, Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Khi đi đến nhà số 5B, ngách 40/255 Nguyễn Khang, Bị cáo Đ nhìn thấy cửa phòng ban công tầng hai đang mở, đã nảy sinh ý định xấu. Bị cáo Đ chờ đợi ở đó đến 02h10’ và không thấy ai xung quanh, bị cáo Đ bám vào cửa sắt tầng 01, trèo lên ban công tầng hai rồi đột nhập vào phòng trọ của anh Nguyễn Văn Đ và chị Đoàn Thị Như Q. Khi đi vào phòng, Bị cáo Đ quan sát thấy bên phải có hai chiếc bàn liền nhau kê sát tường, trên bàn có đặt hai laptop và một máy tính để bàn, anh Đ, chị Q nằm ngủ trên giường phía bên trái của bị cáo Đ. Bị cáo Đ đi sâu vào trong phòng và nhìn thấy trên gối chị Q có một điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi 5. Bị cáo Đ lấy trộm chiếc điện thoại trên và cho vào túi quần sau đó tiếp tục đi ra khu vực bàn để máy tính thì thấy điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi 3 và một ví da màu đen của anh Đ bên trong ví có 1.100.000 đồng; Một giấy chứng minh nhân dân, hai giấy phép lái xe, hai thẻ ngân hàng, tất cả đều mang tên anh Nguyễn Văn Đ. Bị cáo Đ tiếp tục lấy trộm ví và điện thoại đút vào trong túi quần.

Khi đi đến khu vực đầu giường, phát hiện một máy tính xách tay nhãn hiệu HP Pavilion màu trắng của chị Q để tại bàn gấp đầu giường. Bị cáo Đ dùng tay ôm trước máy tính ở trước ngực và sau đó đi ra phía ban công trèo xuống thoát ra ngoài. Sau khi trộm các số tài sản trên, bị cáo Đ đi bộ về hướng đầu ngõ 255 Nguyễn Khang thì bị tổ công tác Công an phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy kiểm tra hành chính thu giữ toàn bộ tang vật và đưa bị cáo Đ về trụ sở để làm rõ. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ một bộ quần áo bị cáo Đ đã sử dụng khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 100/TCKS-BBĐGH ngày 19/03/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của quận Cầu Giấy xác định: Máy tính xách tay nhãn hiệu HP Pavilion Core i3, ram 4Gb màu trắng trị giá 6.170.000 đồng, một điện thoại di động Xiaomi 3 màu bạc lắp sim 0987430525 trị giá 1.400.000 đồng, một điện thoại Xiaomi 5 màu vàng lắp sim 0359667389 trị giá 2.100.000 đồng. Kết luận định giá tài sản số: 140/TCKS-BBĐGH ngày 08/04/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cầu Giấy xác định: Chiếc ví da màu đen đã qua sử dụng không còn giá trị. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo Đ đã trộm cắp của anh Đ, chị Q là 10.770.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Bị cáo Vũ Tiến Đ khai nhận tội như nội dung vụ án đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo Đ phù hợp với lời khai của hai bị hại, người làm chứng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ.

Các người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 182/CT-VKSCG ngày 14/06/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã truy tố bị cáo Vũ Tiến Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số:164/2019/HS-ST ngày 02/7/2019 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Tiến Đ phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Tiến Đ 08 (Tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19/3/2019 đến ngày 21/3/2019). Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 05/07 /2019 bị cáo Vũ Tiến Đ kháng cáo xin giảm án và tại phiên tòa phúc thẩm bổ sung kháng cáo xin được cải tạo tại địa phương.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Vũ Tiến Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không có ý kiến gì về tội danh, điều luật mà cấp sơ thẩm áp dụng để xử phạt bị cáo Vũ Tiến Đ. Bị cáo khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Bị cáo xin được cải tạo tại địa phương, Bị cáo Vũ Tiến Đ thực sự ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

Về hình thức: Bị cáo Vũ Tiến Đ nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên mức án 08 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1.Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Vũ Tiến Đ nộp trong thời hạn luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, được quy định tại các điều 331,332,333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Xét nội dung kháng cáo:

Căn cứ lời khai của bị cáo Vũ Tiến Đ tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận:

Khong 02h ngày 19/03/2019, bị cáo Đ đã có hành vi trộm cắp 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP Pavilion Core i3 ram 4Gb màu trắng trị giá 6.170.000 đồng, 01 điện thoại Xiaomi 5 màu vàng lắp sim 0359667.389 trị giá 2.100.000 đồng của chị Đoàn Như Q, 01 điện thoại di động Xiaomi 3 màu bạc lắp sim 0987430525 trị giá 1.400.000 đồng, 01 ví da bên trong có 02 thẻ ngân hàng, 02 giấy phép lái xe và số tiền 1.100.000 đồng của anh Nguyễn Văn Đ, tổng trị giá tài sản mà bị cáo Đ chiếm đoạt là 10.770.000 đồng tại khu vực nhà số 5, ngách 40/255 Nguyễn Khang, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Tài sản bị cáo Đ chiếm đoạt đã trả lại cho người bị hại. Hành vi của bị cáo Đ đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Vũ Tiến Đ là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo: Hành vi của bị cáo Đ là nguy hiểm cho xã hội, vì đã xâm phạm đến tài sản của anh Đ và chị Như Q, làm mất trật tự trị an tại hai địa phương, gây tâm lý bất bình trong nhân dân. Bản thân bị cáo có nhận thức pháp luật nhưng không có ý thức tu dưỡng nên đã phạm tội. Vì vậy cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm phòng ngừa tội phạm nói chung và giáo dục bị cáo nói riêng.

Khi quyết định hình phạt Tòa cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; căn cứ nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại các điểm, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian .Với mức án của bị cáo mà cấp sơ thẩm tuyên là có căn cứ tương sứng với hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Tiến Đ. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, tài sản của người bị hại nhận lại vẫn nguyên vẹn, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bố đẻ của bị cáo Đ là bệnh binh mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng các tình tiết giảm nhẹ này. Nên chỉ cần cho bị cáo Đ cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm quyết định chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Vũ Tiến Đ; Sửa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình sự; Giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Bị cáo Vũ Tiến Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

I.Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Vũ Tiến Đ.

II.Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 164/2019/HSST ngày 02/07/2019 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội về quyết định hình sự; Giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Tiến Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản." Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Các điểm h, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Tiến Đ 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 16 tháng. Kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo Vũ Tiến Đ cho Ủy ban nhân dân xã Thành L, huyện Vụ B, tỉnh Nam Định, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

III.Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Tiến Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

IV.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 12/9/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 683/2019/HS-PT ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:83/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về