Bản án 69/2019/DS-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 69/2019/DS-ST NGÀY 10/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 10 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2019/TLST-DS ngày 03 tháng 01 năm 2019 về “tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXX-ST ngày 05 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hồng T sinh năm: 1960.

Đa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Âu Thị Th sinh năm: 1958.

Đa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

3. Người làm chứng:

3.1 Bà Phạm Thị D sinh năm: 1979.

3.2 Bà Lê Thị Kim L sinh năm: 1979.

3.3 Bà Đặng Thị N sinh năm: 1976.

3.4 Bà Nguyễn Thị Ngọc H sinh năm: 1972.

Cùng địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang

(Bà T có mặt, bà Th, bà D, bà L, bà N, bà H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13 tháng 12 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hồng T trình bày: Vào ngày 09 tháng 9 năm 2017 âm lịch bà có mở 01 dây hụi 1.000.000 đồng do bà làm chủ hụi, bà Âu Thị Th có tham gia 01 phần, dây hụi có 21 phần, thỏa thuận kỳ mở hụi là ngày 09 hàng tháng ai bỏ thăm cao được lãnh hụi. Đến kỳ mở hụi lần thứ 07 bà Th trúng thăm được lãnh hụi với số tiền là 17.200.000 đồng trừ 500.000 đồng cho chủ hụi còn lại 16.700.000 đồng, sau khi lãnh hụi bà Th đóng lại 02 kỳ hụi chết thì ngưng cho đến nay. Dây hụi này mãn vào ngày 09 tháng 5 năm 2019 âm lịch nhằm ngày 11 tháng 6 năm 2019 dương lịch. Tính đến ngày xét xử bà Th còn nợ bà 10 kỳ hụi chết đã đến hạn và 02 kỳ hụi chết chưa đến hạn, tổng cộng là 12 kỳ với số tiền là 12.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu bà Th trả bà 12.000.000 đồng, thời gian trả như sau: số tiền 10.000.000 đồng đã dến hạn bà yêu cầu trả 01 lần, còn lại 2.000.000 đồng chưa đến hạn bà yêu cầu trả theo kỳ khui hụi.

Đi với bà Âu Thị Th đã được Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng bà Th không có văn bản gửi Tòa án thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà T xem như bà Th từ bỏ quyền trình bày để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Tại các biên bản ghi lời khai ngày 26 tháng 3 năm 2019 những người làm chứng là Bà Phạm Thị D, bà Lê Thị Kim L, bà Đặng Thị N, bà Nguyễn Thị Ngọc H cùng thống nhất trình bày: Bà D, bà L, bà N, bà H không có mâu thuẫn gì với bà T và bà Th. Bà D, bà L, bà N, bà H cùng tham gia dây hụi 1.000.000 đồng mở ngày 09 tháng 5 năm 2017 âm lịch với bà Th do bà T làm chủ hụi. Bà D, bà L, bà N, bà H đều xác định bà Th tham gia 01 phần và đã lãnh hụi xong rồi nhưng bà Th có đóng lại hụi chết cho bà T hay không thì các bà không biết.

Tại phiên tòa bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu như trên; bà Th, bà D, bà L, bà N, bà H vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà Th, bà D, bà L, bà N, bà H là phù hợp Điều 228, 229 Bộ luật tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Giữa bà Nguyễn Thị Hồng T và bà Âu Thị Th thực tế có xảy ra quan hệ góp hụi với nhau được thể hiện qua giấy hụi do bà T cung cấp và lời khai của những người làm chứng là bà Phạm Thị D, bà Lê Thị Kim L, bà bà Đặng Thị N, bà Nguyễn Thị Ngọc H đều xác định bà Th có tham gia dây hụi 1.000.000 đồng mở ngày 09 tháng 5 năm 2017 âm lịch do bà T làm chủ hụi. Tại phiên tòa bà T xác định bà Th đã lãnh hụi xong và còn nợ lại bà 12 kỳ hụi chết với số tiền là 12.000.000 đồng, trong đó số tiền 10.000.000 đồng đã đến hạn còn 2.000.000 đồng chưa đến hạn. Đối với Th đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý và các văn bản tố tụng khác nhưng bà Th không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà T và bà Th vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng xem như bà Th thừa nhận việc bà có tham gia góp hụi do bà T làm chủ hụi và còn nợ lại bà T 12.000.000 đồng đến nay chưa trả, đồng thời bà cũng từ bỏ quyền quyền trình bày để bảo vệ quyền lợi cho mình. Mặt khác những người làm chứng là bà D, bà L, bà N, bà H cũng xác định bà Th đã lãnh hụi do bà T giao. Xét thấy lời trình bày của bà T phù hợp giấy hụi mà bà cung cấp và cũng phù hợp với lời khai của những người làm chứng là những người hoàn toàn vô tư khách quan. Do đó, cần buộc bà Th trả bà T số tiền nợ hụi còn thiếu tổng cộng là 12.000.000 đồng, trong đó 10.000.000 đồng đã đến hạn trả 01 lần, còn 2.000.000 đồng chưa đến hạn trả theo kỳ khui hụi là phù hợp Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015.

[2] Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự và người tham gia tố tụng khác tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tạm ngừng phiên tòa để xác minh việc bà Th có bỏ địa phương đi làm ăn xa hay không để đảm bảo việc bà Th có biết việc bà T khởi kiện bà Th. Xét thấy, bà Th có nơi cư trú rõ ràng, có xác nhận của chính quyền địa phương và tại phiên tòa bà T xác định bà và Th có gặp nhau tại địa phương và bà Th cũng biết việc bà T khởi kiện mình. Việc bà Th có đi làm ăn xa hay không đó là việc cá nhân bà Th do đó Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải tạm ngừng phiên tòa để tiến hành xác định thông tin bà Th bỏ đi làm ăn xa cũng đủ cơ sở giải quyết vụ án.

[3] Về án phí: Bà Âu Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng T được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bà Nguyễn Thị Hồng T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện của bà T được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 29 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Điều 228, 229 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng T.

Buộc bà Âu Thị Th phải có nghĩa vụ trả bà Nguyễn Thị Hồng T số tiền nợ hụi là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng). Thời gian trả như sau:

- Bà Th trả bà T 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) 01 lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Bà Th trả bà T 1.000.000 đồng (một triệu đồng) vào ngày 09 tháng 4 năm 2019 âm lịch nhằm ngày 13 tháng 5 năm 2019 dương lịch.

- Bà Th trả bà T 1.000.000 đồng (một triệu đồng) vào ngày 09 tháng 5 năm 2019 âm lịch nhằm ngày 11 tháng 6 năm 2019 dương lịch.

Kể từ ngày bà Nguyễn Thị Hồng T có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà Âu Thị Th chậm thi hành đối với số tiền trên thì còn phải chịu thêm khoản lãi theo quy định tại Điều 357 và 468 Bộ lật dân sự 2015.

2. Về án phí:

2.1 Bà Âu Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).

2.2 Bà Nguyễn Thị Hồng T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho bà T 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 09701 ngày 03 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Hồng T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Đối với bà Âu Thị Th thời hạn kháng cáo trên được tính kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

623
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/DS-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:69/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về