Bản án 696/2017/HSPT ngày 28/12/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 696/2017/HSPT NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 28 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 655/HSPT ngày08/11/2017 đối với bị bị cáo Phan Văn T. Do có kháng cáo của bị cáo Phan Văn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 206/2017/HSST ngày 29/9/2017của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Phan Văn T; giới tính: Nam; sinh năm: 1993, tại Quảng Trị; thường trú: thôn T, xã TV, huyện TP, tỉnh Quảng Trị; chỗ ở: Nhà không số, tổ B, ấp H, xã VL, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Làm cơ khí; con ông Phan Chí T và bà Trần Thị B; hoàn cảnh gia đình: Có vợ và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

NHẬN THẤY

Theo Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung vụ án như sau:

Khoảng đầu tháng 12/2015, Phan Văn T sử dụng tên giả là Trần Quang T để gọi điện thoại liên lạc với anh Lê Quang H, sinh năm: 1978, là thầu bán “mùn cưa” cho lò hơi Công ty KTP trong khuôn viên Công ty Cao su M thuộc khu phốH, phường TTH, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để hỏi việc có mua “mùn cưa” là chất đốt, qua thỏa thuận anh Hưng đồng ý mua giá 700 đồng/1kg.

Sau khi thỏa thuận với anh Lê Quang H, Phan Văn T tiếp tục sử dụng tên giả là Trần Quang T gọi điện thoại cho anh Trần Cam Đ (tên gọi khác là T1), sinh năm 1974 là chủ mua bán mùn cưa tại xã VL, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh để hỏi có hàng mùn cưa giao cho Công ty Cao su M với số lượng lớn không, thì anh Trần Cam Đ bảo có và đồng ý thỏa thuận bán cho Phan Văn T với giá 800 đồng/1kg, đồng thời thỏa thuận giao khoảng 4 đến 5 xe mùn cưa thì thanh toán tiền một lần. Tuy nhiên, Phan Văn T yêu cầu anh Trần Cam Đ giao 15 (mười lăm) xe để Công ty xuất hóa đơn thanh toán một lần thì anh Trần Cam Đ đồng ý. Do vậy từ ngày 08/12/2015 đến ngày 08/01/2016, Phan Văn T đã nhận của anh Trần Cam Đ tổng cộng 15 xe ô tô tải chở hàng mùn cưa với 15 phiếu tính tiền, tổng trọng lượng 83.240 kg, thành tiền là 58.260.000 đồng. Trong 15 phiếu tính tiền, Phan Văn T trực tiếp đến thành phố BH, tỉnh Đồng Nai gặp anh Lê Quang H và nhận tiền bán mùn cưa 5 lần của 13 chuyến hàng đầu với số tiền 50.057.000 đồng. Riêng 02 chuyến cuối thì một người tự xưng tên là V (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mang phiếu xuất kho đến thành phố BH, tỉnh Đồng Nai gặp trực tiếp anh Lê Quang H để nhận tiền 02 chuyến cuối số tiền là 8.211.000 đồng. Sau khi giao xong 15 chuyến hàng mùn cưa thì Phan Văn T tắt máy điện thoại tránh mặt anh Trần Cam Đ.

Đến ngày 18/02/2016, anh Trần Cam Đ phát hiện Phan Văn T tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh nên bắt giữ và giao cho Công an Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh lập hồ sơ xử lý.

Tại Bản kết luận giám định số 674/KLGĐ ngày 10/5/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: chữ viết họ tên “Trần Quang T” tại các tài liệu cần giám định so với chữ viết của Phan Văn T dùng làm mẫu so sánh là chữ viết của cùng một người.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 206/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn T 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên phần án phí quyền và thời hạn kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/10/2017 bị cáo Phan Văn T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà bị cáo thực hiên đã đề nghị:

Bị cáo Phan Văn T đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 02 năm tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Sau khi xử sơ thẩm, bị cáo Tuyến có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Xét thấy, bị cáo Phan Văn T đã có hành vi sử dụng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, tài sản mà bị cáo chiếm đoạt trị giá trên 50 triệu đồng.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139; Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn T 02 (hai) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người đúng tội.

Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, để có thể xem xét giảm nhẹ hơn nữa hình phạt cho bị cáo hoặc cho bị cáo được hưởng ăn treo.

Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Văn T mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn T 02 (hai) năm tù, như Bản án sơ thẩm đã tuyên.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo bị cáo Phan Văn T không tranh luận mà chỉ xin được hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo;

XÉT THẤY

Bị cáo Phan Văn T có hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, tài sản mà bị cáo chiếm đoạt trị giá trên 50 triệu đồng. Hành vi của bị cáo Phan Văn T như vậy đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 139 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Sau khi xử sơ thẩm, ngày 06/10/2017 bị cáo Phan Văn T kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy

Bị cáo Phan Văn T đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác, trị giá tài sản trên 50 triệu đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Phan Văn T 02 năm tù, về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt  tài sản”.

Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều46 của Bộ luật hình sự để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng.

Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết nào mới để có thể xem xét giảm nhẹ hơn nữa hình phạt cho bị cáo hoặc cho bị cáo hưởng án treo. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Từ các nhận định trên,

Căn cứ điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Văn T mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.Xử phạt bị cáo Phan Văn T 02(hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 696/2017/HSPT ngày 28/12/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:696/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về