Bản án 70/2018/HSST ngày 13/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 70/2018/HSST NGÀY 13/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 08 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2018/HSST ngày 25 tháng 07 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2018/HSST-QĐ ngày 30 tháng 07 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Võ Thành N, sinh năm 1988 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 7, xã Phước Bình, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Ta và bà Vũ Thị Huệ; có vợ và 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/12/2017 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành. “Có mặt”

2. Võ Thanh X, sinh năm 1985 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Tổ 7, ấp 1, xã Phước Bình, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Lái Xe; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Thanh Tùng và bà Huỳnh Thị Sơn; có vợ (không đăng ký kết hôn) và chưa có con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/12/2018 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành. “Có mặt”

3. Hoàng Minh K, sinh năm 1993 tại Quảng Bình; Nơi cư trú: tổ 4, phường Hải Thành, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng bình; Tạm trú: ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng X Tiến và bà Hoàng Thị Sâm; chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/12/2017 chuyển tạm giam đến ngày 01/02/2018 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lãnh và đang tại ngoại tại ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành,  tỉnh Đồng Nai. “Có mặt”

- Bị hại: Công ty TNHH MTV C T Corporation Việt Nam.

Địa chỉ: KCN Nhơn Trạch 2, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Đại diện theo pháp luật: ông LIU CHUN LI, chức vụ: Tổng giám đốc. Đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Hữu Phước, chức vụ: Phó giám đốc. Văn bản ủy quyền ngày 09/07/2018. “Có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Thành N là nhân viên bảo vệ Cảng Gò Dầu A, thuộc khu Công nghiệp Gò Dầu-VeDan đến tháng 7/2017 thì Nhân nghỉ việc. Do không có tiền tiêu xài nên N nảy sinh ý định trộm cắp hóa chất Mono Ethylene Glycol (MEG) của công ty TNHH MTV C T Extile Corporation Việt Nam, địa chỉ Khu Công nghiệp Gò Dầu, xã Phước Thái, huyện Long Thành đem bán lấy tiền tiêu xài. Đầu tháng 12/2017 (không rõ ngày), tại quán cà phê “Hùng Nguyễn” ở xã Phước Thái, huyện Long Thành, N rủ Võ Thanh X là tài xế của Công ty vận tải Ngọc Mai và Hoàng Minh K là nhân viên bảo vệ mục tiêu kho chứa hóa chất của Công ty C T Việt Nam trộm cắp hóa chất MEG của Công ty C T Việt Nam bán lấy tiền tiêu xài, X và K đồng ý. N, X và K thỏa thuận thời điểm nào thuận lợi thì K báo cho X lái xe bồn vào kho công ty C T Việt Nam rồi cùng K trộm cắp hóa chất. Sau đó, X gặp Lê Vũ B và nhờ B thuê bãi đất của anh Nguyễn Minh Hoàng ở ấp 2, xã Phước B, huyện Long Thành với giá 500.000 đồng/01 ngày để cất giấu hóa chất trộm cắp được. Sau khi thuê được bãi đất, X gọi điện thoại cho một người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) thỏa thuận bán hóa chất MEG với giá 2.000.000 đồng/1 thùng  (200  lít).  Đến  chiều  ngày 16/12/2018, người đàn ông mua hóa chất chở thùng nhựa để chứa hóa chất đến bãi đất ở ấp 2, xã Phước B giao cho X.

Lúc 13 giờ ngày 17/12/2018, X điều khiển xe ô tô biển số 51C-626.83 kéo Rơ móc bồn biển số 51R-124.99 đến đỗ tại khu Cảng Gò Dầu (cạnh kho hóa chất MEG của Công ty C T Việt Nam) rồi đón xe ôm về nhà. Đến 18 giờ cùng ngày, K điện thoại cho X thông báo đến giờ trộm cắp hóa chất, X nhờ B điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở X đến Cảng Gò Dầu rồi B đi về. X điều khiển xe ô tô biển số 51C-626.83 kéo Rơ móc bồn biển số 51R-124.99 vào cổng Công ty C T và đỗ ở vị trí gần van xả hóa chất, K mở van xả hóa chất từ kho vào bồn xe. Khi X và K thực hiện hành vi trộm cắp hóa chất thì N đứng đợi ở đường quốc lộ 51 (trước cổng khu Công nghiệp Gò Dầu). Đến 19 giờ cùng ngày, X điều khiển xe bồn chứa hóa chất trộm cắp được, còn N điều khiển xe mô tô biển số 60N8-6441, K điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến bãi đất trống tại ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành. Tại đây, N, X và K xả hóa chất từ bồn xe sang 15 thùng nhựa. Tổng số lượng hóa chất MEG N, X và K trộm cắp được là 16.770 kg.

Đến ngày 21/12/2017, Hoàng Minh K đến Đồn Công an Khu công nghiệp Gò Dầu đầu thú. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã thu giữ tại bãi đất trống ở ấp 2, xã Phước Bình 19 thùng nhựa, trong đó có 15 thùng chứa 16.770 kg hóa chất MEG và 04 thùng rỗng. Đến ngày 23/12/2017 và ngày 25/12/2017, Võ Thanh X và Võ Thành N đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đầu thú.

Tại kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 118/KLĐGTSTT ngày 28/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Long Thành kết luận: 16.770 kg hóa chất MEG (Mono Ethylene Glycol) trị giá 349.916.112 đồng (Bút lục số 25).Vật chứng vụ án: 16.770 kg hóa chất Mono Ethylene Glycol (MEG) đã thu hồi trả lại cho công ty TNHH C T Extile Corporation Việt Nam; 02 điện thoại Nokia của N và K đã được chuyển đến cơ quan thi hành án dân sự huyện Long Thành chờ xử lý;

- Đối với 01 xe ô tô biển số 51C-626.83 kéo Rơ móc bồn biển số 51R-124.99 do Công ty trách nhiệm hữu hạn TM DV Ngọc Mai (người đại diện Vương Mỹ Linh) đứng tên chủ sở hữu và xe mô tô biển số 60N8-6441 do N mượn của Võ Văn Ta, chị Linh và ông Ta không biết X và N sử dụng xe ô tô trên vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra công đã trả lại cho chị Linh và ông Ta.

Riêng 19 thùng nhựa (loại thùng 1000lít) chưa xác định được chủ sở hữu Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đang tạm giữ, tiếp tục điều tra xử lý sau.

Ngoài ra, còn có 01 điện thoại Nokia 1202 do X sử dụng vào việc phạm tội, hiện X đã làm mất nên không thu hồi được và 02 xe mô tô (không rõ biển số) do X và K mượn của bạn (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), sau khi thực hiện hành vi phạm tội, N và K đã trả lại cho những người này, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh xử lý sau.

Tại Cáo trạng số: 51/CT-VKS ngày 18 tháng 05 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố các bị cáo Võ Thành N, Võ Thanh X, Hoàng Minh K theo khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy các bị cáo Võ Thành N, Võ Thanh X, Hoàng Minh K theo khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 138, điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và đề nghị xử phạt:

Võ Thành N từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù. Võ Thanh X từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Hoàng Minh K từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 02 điện thoại Nokia của N và K sử dụng vào việc phạm tội.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong cáo trạng; nội dung phân tích, luận tội của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, đồng thời các bị cáo xác nhận hành vi phạm tội của mình và trong lời nói sau cùng cũng đã đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để tạo điều kiện cho các bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng và làm người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, thẩm quyền tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và truy tố, các bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận vào tháng 12/2017 (không nhớ rõ ngày), Võ Thành N rủ Võ Thanh X và Hoàng Minh K trộm cắp hóa chất Mono Ethylene Glycol (MEG) của công ty TNHH MTV C T Corporation Việt Nam bán lấy tiền tiêu xài, X và K đồng ý. Lúc 18 giờ ngày 17/12/2017, X điều khiển xe ô tô biển số 51C-626.83 kéo Rơ móc bồn biển số 51R-124.99 vào vào cổng Công ty C T và đỗ ở vị trí gần van xả hóa chất, K mở van xả hóa chất từ kho vào bồn xe, còn N thì đứng đợi ở đường quốc lộ 51 (trước cổng khu Công nghiệp Gò Dầu). Sau đó, X điều khiển xe bồn chứa hóa chất trộm cắp được đến bãi đất trống tại ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành. Tại đây, N, X và K xả hóa chất từ bồn xe sang 15 thùng nhựa. Tổng số lượng hóa chất MEG N, X và K trộm cắp được 16.770 kg trị giá 349.916.112 đồng.

Sự thừa nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đều nhận thức được trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài là vi phạm pháp luật. Nhưng do hám lợi, muốn có được tiền bằng con đường bất chính nên các bị cáo đã hành động phạm tội. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố các bị cáo Võ Thành N, Võ Thanh X, Hoàng Minh K  theo khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã  hội tại địa phương.

Xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn kiếm tiền bằng hành vi bất chính nhằm thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân nên các bị cáo đã thực hiện tội phạm, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Vì vậy, các bị cáo phải nhận lãnh một mức hình phạt tương xứng hành vi mà bị cáo đã gây ra.

Đây là vụ án có đồng phạm, trong đó vai trò của từng bị cáo:

- Võ Thành N là chủ mưu, là người nảy sinh ý định và khởi xướng việc trộm cắp, trực tiếp cùng đồng bọn thực hiện việc chiếm đoạt. Do đó, đối với bị cáo N cần có một mức án nghiêm khắc hơn các bị cáo khác, tương xứng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo thành người tốt.

- Bị cáo Võ Thanh X sau khi được Võ Thành N rủ rê việc trộm cắp, bị cáo đã đồng tình ngay và tích cực thực hành tội phạm, dùng phương tiện là xe ô tô cùng đồng bọn thực hiện việc trộm cắp và chở tài sản chiếm đoạt đi cất giấu. Vai trò của bị cáo cũng rất nguy hiểm nên xử nghiêm là cần thiết nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo thành người tốt.

- Bị cáo Hoàng Minh K sau khi được Võ Thành N rủ rê việc trộm cắp đã bỏ qua chức trách nhiệm vụ của mình là bảo vệ tài sản công ty để tạo điều kiện cho việc trộm cắp, K cùng với X là người trực tiếp thực hiện việc trộm cắp nên cũng cần phải có một hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo thành người tốt.

Tuy nhiên, tại phiên tòa công khai hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn khai báo và nhận thức việc làm của mình là sai trái. Các bị cáo đã thực hiện việc phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, đại diện của bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Riêng bị cáo N có cha và ông bà nội là người có công với cách mạng nên áp dụng khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo N

Đối với ông Võ Văn Ra: Ngày 10/07/2018, Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành để điều tra bổ sung, làm rõ vai trò của ông Võ Văn Ra trong vụ án nhưng sau khi điều tra bổ sung, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng số: 51/CT-VKS ngày 18 tháng 05 năm 2018. Vì vậy, đối với ông Võ Văn Ra, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Long Thành sẽ tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[3]Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[4] Biện pháp tư pháp: 02 điện thoại Nokia của N và K sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, sung quỹ nhà nước.

(Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/05/2018)

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Võ Thành N, Võ Thanh X, Hoàng Minh K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 3 Điều 138, điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt:

Bị cáo Võ Thành N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày 25/12/2017. Bị cáo Võ Thanh X 03 (ba) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày 23/12/2017. Bị cáo Hoàng Minh K 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 13/08/2018, được trừ vào thời giam tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 21/12/2017 đến ngày 01/02/2018.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Bắt tạm giam bị cáo Hoàng Minh K ngay sau khi tuyên án.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 02 điện thoại Nokia của bị cáo N và K là phương tiện, công cụ sử dụng liên quan đến việc phạm tội.

(Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/05/2018)

Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. 

Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2018/HSST ngày 13/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:70/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về