Bản án 70/2018/HSST ngày 28/3/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 70/2018/HSST NGÀY 28/03/2018 VỀ TRỘM CĂP TÀI SẢN

Ngày 28/3/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2018/HSST ngày 01/02/2018 đối với bị cáo:

LÊ TRƯỜNG Q – Sinh năm: 1992; HKTT: Thôn B, xã K, Yên Khánh, Ninh Bình; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Xuân N và bà Đỗ Thị Nh; TATS: Theo danh chỉ bản số 555 ngày 13/11/2017 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 03 tiền án và 01 tiền sự:

+ Ngày 20/4/2006, Công an huyện Yên Khánh, Ninh Bình đưa vào trường giáo dưỡng;

+ Án số 16/2008/HSST ngày 16/7/2008, Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội: Trộm cắp tài sản ( trị giá tài sản 17.800.000 đồng). Theo biên bản xác minh thi hành án ngày 08/9/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình cho biết: Q đã nộp án phí vào tháng 9/2008;

+ Án số 10/2018/HSST ngày 30/01/2018, Tòa án nhân dân TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 36 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/8/2017;

+ Án số 13/2018/HSST ngày 24/01/2018, Tòa án nhân dân Quận Hà Đông, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Bị cáo bị bắt ngày 29/08/2017 (Có mặt).

* Người bị hại:

1. Anh Nguyễn Minh T – Sinh: 1975; HKTT : Tổ X, phường L, Long Biên, Hà Nội; Chỗ ở: Biệt thự số A N khu đô thị S, tổ 13, phường Phúc Đồng, Long Biên, Hà Nội, (Vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn T1 – Sinh: 1982; HKTT: Thôn K, xã N, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07h45 ngày 25/8/2017, anh Nguyễn Minh T đến Công an phường Phúc Đồng và cơ quan CSĐT- Công an Quận Long Biên trình báo: Khoảng 02h15 phút ngày 25/08/2017, tại nhà riêng của anh ở biệt thự số 03 N06 khu đô thị Sài Đồng, P. Phúc Đồng, quận Long Biên bị kẻ gian đột nhập vào trộm cắp 02 điện thoại di động Iphone 6, 01 ví da màu đen bên trong có thẻ ATM, 01 đăng ký xe máy BKS: 29K1- 638.02, 01 giấy phép lái xe ô tô, 01CMTND đều mang tên Nguyễn Minh T cùng số tiền 5.300 USD, 200 EURO và 16.000.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam.

Sau khi tiếp nhận đơn trình báo, Cơ quan CSĐT- Công an Quận Long Biên tiến hành khám nghiệm hiện trường, rà soát nhân chứng và camera an ninh, áp dụng các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật. Ngày 29/8/2017, Cơ quan CSĐT- Công an Quận Long Biên nhận được nguồn tin của Cơ quan CSĐT - Công an TP Ninh Bình về việc đã bắt giữ Lê Trường Q khi Q đang có hành vi bán 02 chiếc điện thoại Iphone 6 trên đường Lê Hữu Thọ, Hoàng Mai, Hà Nội. Q khai là đó tang vật của vụ án trộm cắp vào đêm ngày 25/8/2017 trên địa bàn Quận Long Biên. Cơ quan điều tra Công an Quận Long Biên đã phối hợp với Cơ quan điều tra Công an TP Ninh Bình đấu tranh làm rõ như sau: Đêm ngày 25/8/2017, Q đi lang thang một mình sang khu vực quận Long Biên mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi ngang khu nhà biệt thự của gia đình anh Nguyễn Minh T số 03 N06 khu đô thị Sài Đồng, phường Phúc Đồng phát hiện cửa tầng 2 khép, quan sát xung quanh không thấy có người, Q liền trèo lên tầng 2, khi vào phòng Q bật đèn pin điện thoại mang theo người soi sáng để tìm tài sản. Phát hiện vợ chồng anh Tiến đang ngủ say, trên bàn trang điểm có để 01 túi xách, Q đã trộm cắp túi xách cùng 02 chiếc điện thoại di động Iphone 6 để trong phòng ngủ rồi đi ra ban công trèo xuống đường tẩu thoát. Tại phòng trọ của mình, Q mở túi xách kiểm tra thấy bên trong có: 01 ví da đựng các giấy tờ cá nhân, gồm một số thẻ tín dụng và thẻ ATM, 01 đăng kí xe máy, 01 giấy phép lái xe ô tô, 01 CMTND đều mang tên Nguyễn Minh T; 01 phong bì dán kín bên trong có 5000 USD tiền mới, 175 EURO và khoảng 450 USD tiền cũ và khoảng 15.000.000 đồng tiền ngân hàng Việt Nam. Q mang túi xách cùng các giấy tờ cá nhân trên ném xuống hồ Linh Đàm còn tiền ngoại tệ mang đi bán. Q đến cửa hàng vàng Tùng Bách, địa chỉ: 958 phố Trương Định, phường Giáp Bát, Q. Hoàng Mai, Hà Nội của chị Nguyễn Thị Bích Dần để bán 175 EURO và 450 USD được khoảng 14.000.000 đồng. Sau đó, Q tiếp tục đến một cửa hàng vàng khác (hiện chưa xác định được địa chỉ) cách vị trí cửa hàng Tùng Bách khoảng 1 km bán 1000 USD được 22.700.000 đồng rồi tiếp tục đi đến cửa hàng vàng Hoàn Nga, địa chỉ: 552 phố Bạch M địa chỉ: 552 phố Bạch Mai, P.Trương Định, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội do chị Phạm Thúy Nga là chủ cửa hàng để bán 4000 USD được 90.400.000 đồng. Tổng số tiền trộm cắp và bán ngoại tệ được khoảng 142.100.000 đồng, Q đã sử dụng như sau: Mua 01 điện thoại Iphone 7 Plus giá 25.990.000 đồng để sử dụng, 01 xe đạp điện màu xanh nhãn hiệu Yamaha giá 3.000.000 đồng và gửi về nhà 40.000.000 đồng, số tiền còn lại Q khai đã tiêu sài cá nhân hết.

Ngày 29/8/2017, khi Q đang giao dịch để bán 02 chiếc điện thoại Iphone 6 ( trộm cắp của anh Nguyễn Minh T ) tại đường Nguyễn Hữu Thọ, P. Đại Kim, Q. Hoàng Mai thì bị Công an TP Ninh Bình phát hiện bắt giữ ( vì trước đó Q có hành vi trộm cắp tài sản ở Ninh Bình). Tài sản Q bị thu giữ gồm: 02 chiếc điện thoại Iphone 6, 01 điện thoại Iphone 7 Plus, 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha và số tiền 19.000.000 đồng. Cơ quan CS điều tra - Công an TP Ninh Bình đã chuyển giao toàn bộ số tài sản trên cho Cơ quan CS điều tra- Công an Quận Long Biên để giải quyết theo thẩm quyền.

Trong quá trình điều tra, Lê Trường Q còn khai nhận đã thực hiện một hành vi trộm cắp khác tại địa bàn quận Long Biên, cụ thể như sau: Khoảng 03h sáng ngày 08/6/2017, Q đi bộ lang thang qua khu lán công trình xây dựng trong ngõ 17 đường Cổ Linh, P.Long Biên, Q. Long Biên. Q tiến sát cửa lán thấy anh Nguyễn Văn T1 đang ngủ trên giường, xe máy Honda Airblade BKS: 29Y7- 2433 không khóa càng và khóa cổ. Phát hiện trên đầu giường anh Tiến ngủ có chìa khóa xe máy, 02 điện thoại (gồm 01 điện thoại NOKIA đen trắng, 01 điện thoại SAMSUNG đã cũ), 01 đồng hồ đeo tay. Q đã trộm cắp toàn bộ số tài sản trên, dùng chìa khóa mở khóa điện rồi phóng xe máy về khu vực hồ bán đảo Linh Đàm. Tại đây, Q mở cốp xe máy kiểm tra bên trong có: 01 ví da bên trong có 01 bằng lái xe, 01 đăng kí xe mang tên Nguyễn Thúy Liễu, 01 CMTND mang tên Nguyễn Văn T1 cùng số tiền khoảng 200.000 đồng. Toàn bộ ví da cùng giấy tờ, Q ném xuống hồ Linh Đàm còn xe máy Q bán cho một cửa hàng mua xe máy cũ trên đường 70 Phùng Hưng, P.Kiến Hưng, Q.Hà Đông, Hà Nội với giá 12.000.000 đồng (hiện Q không xác định được vị trí cửa hàng); 02 điện thoại di động bán cho người không quen biết trên đường được 300.000 đồng. Toàn bộ số tiền trộm cắp, Q đã tiêu sài cá nhân hết.

* Theo Kết luận định giá tài sản số 144 ngày 27/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận Long Biên kết luận, tài sản mà Lê Trường Q trộm cắp của anh Nguyễn Minh T gồm: 01 chiếc ví da màu đen, kích thước 15x15x20 cm đã qua sử dụng, trị giá 1.000.000 đồng; 02 chiếc điện thoại di động Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng trị giá 8.000.000 đồng; 5300 USD trị giá 120.628.000 đồng; 175 EURO trị giá 4.758.775 đồng; Tổng trị giá tài sản là 134.386.775 đồng.

* Theo Kết luận định giá tài sản số 147 ngày 04/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS quận Long Biên kết luận, tài sản mà Lê Trường Q trộm cắp của anh Nguyễn Văn T1 gồm: 01 đồng hồ đeo tay không rõ nhãn hiệu, dây kim loại màu vàng đã qua sử dụng trị giá 300.000 đồng; 01 điện thoại Samsung cảm ứng đã qua sử dụng trị giá 300.000 đồng; 01 điện thoại di động Nokia đen trắng đã qua sử dụng trị giá 200.000 đồng; 01 xe máy Honda Airblade màu đen đã qua sử dụng, BKS: 29Y7-2433 trị giá 10.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 10.800.000 đồng.

Bản cáo trạng số: 15/KSĐT ngày 22/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Lê Trường Q về tội: Trộm cắp tài sản theo điểm c Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Trường Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Lê Trường Q đã đủ yếu tố cấu thành tội: Trộm cắp tài sản theo điểm c Khoản 2 Điều 173 của BLHS 2015.

Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 38 của BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Q mức án từ 48 đến 54 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành 36 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản do TAND TP.Ninh Bình, Ninh Bình xét xử và 24 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản do TAND quận Hà Đông, Hà Nội xét xử. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, buộc bị cáo Q phải chấp hành 09 năm đến 09 năm 06 tháng tù.

Về dân sự: Trong quá trình điều tra, Cơ quan CS điều tra đã trao trả cho anh Nguyễn Minh T 01 điện thoại Iphone 7 Plus, 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha (Q dùng tiền trộm cắp để mua), 02 điện thoại Iphone 6 và số tiền 19.000.000 đồng. Đối với các giấy tờ cá nhân và ví anh Tiến không yêu cầu Q phải bồi thường. Riêng đối với số tiền ngoại tệ và tiền Việt Nam đồng Q trộm cắp, anh Tiến yêu cầu Q phải có trách nhiệm tiếp tục bồi thường số tiền còn thiếu chưa thu hồi được cho anh. Vì vậy, VKS đề nghị buộc bị cáo Q phải bồi thường cho anh Nguyễn Minh T số tiền 94.386.755 đồng.

Anh Nguyễn Văn T1 yêu cầu Q phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 10.000.000 đồng là trị giá chiếc xe máy bị trộm cắp. Đối với 02 điện thoại, 01 đồng hồ và giấy tờ bị Q trộm cắp, anh Tiến không yêu cầu phải bồi thường. Vì vậy, VKS đề nghị buộc bị cáo Q phải bồi thường cho anh Nguyễn Văn T1 số tiền 10.000.000 đồng. Buộc bị cáo Q phải truy nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng tiền bán được 2 chiếc điện thoại anh Tiến không yêu cầu bồi thường và 2.000.000 đồng tiền bị cáo thu lời bất chính từ tiền bán xe máy của anh Tiến.

Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, VKS truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng và không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Xét lời khai nhận tội của bị cáo Lê Trường Q tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, lời khai người làm chứng, bản kết luận định giá tài sản, các tài liệu khác có trong hồ sơ cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố, HĐXX có đủ cơ sở kết luận:

- Khoảng 03h ngày 08/6/2017, tại lán xây dựng trong ngõ 17 đường Cổ Linh, phường Long Biên, Long Biên, Hà Nội, bị cáo Lê Trường Q đã có hành vi lén lút, bí mật trộm cắp của anh Nguyễn Văn T1 01 đồng hồ đeo tay không rõ nhãn hiệu, có dây đeo bằng kim loại màu vàng đã qua sử dụng trị giá 300.000 đồng; 01 điện thoại Samsung cảm ứng đã qua sử dụng trị giá 300.000 đồng; 01 điện thoại di động Nokia đen trắng đã qua sử dụng trị giá 200.000 đồng; 01 xe máy Honda Airblade màu đen BKS: 29Y7-2433 đã qua sử dụng trị giá 10.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 10.800.000 đồng.

- Khoảng 02 giờ 15 phút ngày 25/8/2017, tại ngôi nhà biệt thự số 03 N06 Khu đô thị Sài Đồng, phường Phúc Đồng, Long Biên, Hà Nội, bị cáo Lê Trường Q đã có hành vi lén lút, bí mật trộm cắp của anh Nguyễn Minh T 01 chiếc ví da màu đen, kích thước 15x15x20cm đã qua sử dụng, trị giá 1.000.000 đồng; 02 chiếc điện thoại di động Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng trị giá 8.000.000 đồng; 5300 USD trị giá 120.628.000 đồng; 175 EURO trị giá 4.758.775 đồng và 16.000.000 VND. Tổng giá trị tài sản là 150.386.775 đồng.

Hành vi của bị cáo Lê Trường Q có đầy đủ dấu hiệu của tội: Trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo trộm cắp tài sản có tổng giá trị là 161.186.775 đồng. Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì hành vi của bị cáo vi phạm quy định tại điểm e Khoản 2 Điều 138 có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm bằng khung hình phạt theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, VKSND quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và phù hợp với pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ tư lợi bị cáo cố ý đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được Bộ luật Hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng TNHS đối với bị cáo: Không có

Xét nhân thân của bị cáo có 01 tiền sự: Ngày 20/4/2006, Công an huyện Yên Khánh, Ninh Bình đưa vào trường giáo dưỡng và 01 tiền án: Án số 16/2008/HSST ngày 16/7/2008, Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội: Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 17.800.000 đồng). Theo biên bản xác minh thi hành án ngày 08/9/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình cho biết: Q đã nộp án phí vào tháng 9/2008. Như vậy, tiền án và tiền sự trên của bị cáo đã đương nhiên được xóa theo luật định. Nhân thân của bị cáo như vậy là xấu.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, HĐXX thấy cần phải áp dụng hình phạt tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

Ngoài ra, trong khảng thời gian tháng 7 và tháng 8/2017, bị cáo còn thực hiện nhiều hành vi trộm cắp tài sản tại thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình và quận Hà Đông, Hà Nội và bị Cơ quan CSĐT- Công an TP Ninh Bình, Ninh Bình và Cơ quan CSĐT- Công an Quận Hà Đông, Hà Nội khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lê Trường Q về tội: Trộm cắp tài sản. Đến nay, các hành vi trộm cắp của bị cáo đã bị xét xử: Tại bản án số 10/2018/HSST ngày 30/01/2018, Tòa án nhân dân TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình đã xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/8/2017 và tại bản án số 13/2018/HSST ngày 24/01/2018, Tòa án nhân dân Quận Hà Đông, Hà Nội đã xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Cả hai bản án trên đều đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, cần phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với bị cáo theo quy định định tại Điều 56 của BLHS 2015 là có căn cứ.

 - Về tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 nên cũng xem xét giảm nhẹ phần nào khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về dân sự: Tổng giá trị tài sản anh Nguyễn Minh T bị Q chiếm đoạt là 150.386.775 đồng. Trong quá trình điều tra, Cơ quan CS điều tra đã trao trả cho anh Nguyễn Minh T 01 điện thoại Iphone 7 Plus trị giá 25.990.000 đồng và 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha trị giá 3.000.000 đồng (Q dùng tiền trộm cắp để mua), 02 điện thoại Iphone 6 trị giá 8.000.000 đồng và số tiền 19.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản anh Tiến đã nhận lại là 55.990.000 đồng và không có thắc mắc gì. Đối với các giấy tờ cá nhân và ví anh Tiến không yêu cầu Q phải bồi thường. Riêng đối với số tiền ngoại tệ và tiền Việt Nam đồng Q trộm cắp, anh Tiến yêu cầu Q phải có trách nhiệm tiếp tục bồi thường số tiền còn thiếu chưa thu hồi được cho anh. Xét yêu cầu của anh Tiến là có căn cứ nên chấp nhận và buộc bị cáo phải có trách nhiệm tiếp tục bồi thường thiệt hại cho anh Tiến số tiền là: 94.396.755 đồng.

Anh Nguyễn Văn T1 yêu cầu Q phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 10.000.000 đồng là trị giá chiếc xe máy bị trộm cắp. Đối với 02 điện thoại, 01 đồng hồ và giấy tờ bị Q trộm cắp, anh Tiến không yêu cầu phải bồi thường. Xét đề nghị của anh Tiến là có căn cứ nên chấp nhận và buộc bị cáo Q phải bồi thường thiệt hại cho anh Tiến số tiền 10.000.000 đồng.

Đối với hai chiếc điện thoại, anh Tiến không yêu cầu bồi thường bị cáo khai bán được 300.000 đồng và tiêu sài hết nên cần buộc bị cáo Q phải truy nộp để sung công quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng thu lời bất chính là có căn cứ và phù hợp với pháp luật. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai đã bán chiếc xe máy của anh Tiến được 12.000.000 đồng. Kết quả định giá chiếc xe là 10.000.000 đồng và tại cơ quan điều tra anh Tiến yêu cầu bồi thường thiệt hại theo định giá của Hội đồng định giá là 10.000.000 đồng nên cần buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 2.000.000 đồng còn được hưởng lợi bất chính để sung công quỹ nhà nước là có căn cứ. Tổng cộng hai khoản buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 2.300.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị giải quyết về dân sự là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

Trong quá trình điều tra, chủ cửa hàng vàng bạc Hoàn Nga là chị Phạm Thúy Nga khai không có giao dịch mua bán ngoại tệ với Lê Trường Q. Chủ cửa hàng vàng bạc Tùng Bách là chị Nguyễn Thị Bích Dần khai khi mua ngoại tệ không biết nguồn gốc do Q phạm tội mà có. Vì vậy, Cơ quan CSĐT- Công an Quận Long Biên không có căn cứ để xử lý nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét và xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade BKS: 29Y7-2433: Qua điều tra xác minh xác định đăng ký chính chủ là chị Nguyễn Thúy Liễu trú tại số 33 B Phạm Ngũ Lão, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Xe máy không có trong danh sách dữ liệu xe máy vật chứng. Anh Nguyễn Văn Tuấn - SN 1972, trú tại Đồng Nhân, Hải Bối, Đông Anh, Hà Nội (là chủ cửa hàng mua bán xe máy) khai: Khoảng tháng 10/2016, anh mua lại chiếc xe máy trên. Sau đó, anh bán lại cho anh Nguyễn Văn T1 làm phương tiện đi lại, khi mua bán có viết giấy tờ và giao đăng ký xe.

Bị cáo phải chịu án phí HSST. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Trường Q phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 38 của BLHS năm 2015

Xử phạt bị cáo Lê Trường Q 04 (Bốn) năm tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2018/HSST ngày 24/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật và buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2018/HSST ngày 30/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình đã có hiệu lực pháp luật. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, buộc bị cáo Lê Trường Q phải chấp hành hình phạt là 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2017.

2.Về dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015:

- Buộc bị cáo Lê Trường Q phải bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Minh T số tiền là: 94.396.775 đồng;

- Buộc bị cáo Lê Trường Q phải bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Văn T1 số tiền là: 10.000.000 đồng;

- Buộc bị cáo Lê Trường Q phải truy nộp số tiền là: 2.300.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

3. Án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Trường Q phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và 5.219.000 đồng án phí DSST.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

404
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2018/HSST ngày 28/3/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:70/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về