Bản án 70/2019/HSST ngày 08/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 70/2019/HSST NGÀY 08/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2019/HSST ngày 05 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu Tr, sinh ngày 27 tháng 5 năm 1991 tại T; Nơi ĐKHKTT: Tổ 06, khu C, phường C, thành phố C, tỉnh Q; Nơi ở: Phòng số B411, ký túc xá sinh viên, tổ 39, phường Q, thành phố T, tỉnh T; Nghề nghiệp: sinh viên; Trình độ văn hóa (học vấn) lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu C và bà Trịnh Thị H; Có chồng là Nguyễn Việt A và 01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/12/2018 đến ngày 23/12/2018 chuyển tạm giam đến nay; Trích xuất có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trịnh Thị H; sinh năm 1961; Trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện Q, tỉnh T; (có mặt)

Người chứng kiến:

- Anh Trần Tuấn Đ, sinh năm 1996; Trú tại: tổ 50, phường T, thành phố T, tỉnh T. (vắng mặt)

- Chị Phạm Thị T, sinh năm 1983; Trú tại: Tổ 17, phường L, thành phố T, tỉnh T. (vắng mặt)

- Chị Nguyễn Hà M, sinh năm 1998; Trú tại: thôn H, xã B, huyện Đ, tỉnh H. (vắng mặt)

- Anh Mai Danh Q, sinh năm 1978; Trú tại: thôn D, xã p, huyện Đ, tỉnh T. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 16/12/2018, Nguyễn Thị Thu Tr đi bộ ra khu vực công viên Lê Quý Đ, thuộc tổ 33, phường Đ, thành phố T mục đích tìm mua ma túy về bán kiếm lời. Đến nơi, Tr gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi (không biết tên và địa chỉ) 29 viên ma túy tổng hợp, dạng viên nén màu xanh đựng trong 01 túi nilon và 17 túi ma túy loại Ketamine với giá 25.000.000 đồng, Tr mang số ma túy vừa mua được về chỗ ở chia 29 viên ma túy tổng hợp thành 03 túi, gồm 02 túi mỗi túi đựng 10 viên và 01 túi đựng 09 viên. Sau đó Tr cất giấu 01 túi đựng 10 viên ma túy tổng hợp và 02 túi ma túy Ketamine vào túi áo khoác ngoài bên trái đang mặc; bỏ 02 túi chứa 19 viên ma túy tổng hợp và 02 túi ma túy Ketamine vào trong túi xách giả da của Tr treo sau cửa phòng ngủ; 02 túi ma túy Ketamine để đầu giường ngủ của mình. Còn 11 túi ma túy Ketamine, Tr bỏ vào trong 01 túi nilon rồi cất trên lắp bồn cầu trong nhà vệ sinh. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Tr ra khu vực nhà hàng Ruby, đường Ng, tổ 37, phường Tr, thành phố T tìm người mua để bán ma túy thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T phát hiện, bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của anh Trần Tuấn Đ và chị Phạm Thị T, Tr tự lấy trong túi áo khoác ngoài bên trái đang mặc ra 01 túi nilon trong suốt, bên trong đựng 10 viên nén màu xanh, một mặt có ký hiệu EA7 (Cơ quan điều tra niêm phong, ký hiệu là M1) và 02 túi nilon, bên trong chứa chất dạng tinh thể trong suốt (Cơ quan điều tra niêm phong, ký hiệu là M2), Tr khai là ma túy tổng hợp và ma túy Ketamine của Tr để bán kiếm lời. Cơ quan điều tra đã đưa Tr và mời những người chứng kiến về trụ sở Công an phường Tr, thành phố T làm việc. Tại đây Cơ quan điều tra kiểm tra, quản lý trong túi xách của Tr 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen và số tiền 4.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tr tại Phòng số B411, ký túc xá sinh viên, tổ 39, phường Q, thành phố T, tỉnh T, thu tại giường ngủ của Tr 02 túi nilon trong suốt có mép cài màu xanh, bên trong chứa chất dạng tinh thể trong suốt (ký hiệu là A1). Thu trong túi xách màu nâu treo sau cửa phòng 01 túi nilon trong suốt có mép cài màu xanh, bên trong chứa chất dạng tinh thể trong suốt (ký hiệu là A2) và 01 túi nilon trong suốt có mép cài màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng (ký hiệu là A3); 02 túi nilon trong suốt có mép cài màu đỏ, bên trong chứa 19 viên nén màu xanh, một mặt có ký hiệu EA7 (ký hiệu là A4). Thu trên lắp bồn cầu trong nhà vệ sinh 01 túi nilon trong suốt, bên trong có 11 túi nilon trong suốt chứa chất dạng tinh thể trong suốt (ký hiệu A5). Tr khai đó là các túi ma túy tổng hợp và ma túy Ketamine của Tr tàng trữ để bán kiếm lời.

Tại bản kết luận giám định số 433/KLGĐ-PC09 ngày 17/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

“ - Mầu M1 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng 4,0088 gam;

- Mầu M2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 1,1652 gam;

- Mau A1 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 1,2949 gam;

- Mầu A2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 0,6066 gam;

- Mầu A3 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 0,4835 gam;

- Mầu A4 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, có khối lượng 7,3938 gam;

- Mầu A5 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 6,5380 gam”.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKSTP ngày 04 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố Nguyễn Thị Thu Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, Kiểm sát viên luận tội bị giữ nguyên quan điểm truy tố; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr mức án từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù; Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng sung ngân sách nhà nước, về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Đề nghị: Tịch thu để tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định niêm phong trong 07 phong bì cùng số 433/ KLGĐ; Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr 01 điện thoại di động Iphone màu đen, 02 túi xách màu nâu đã cũ và số tiền 4.000.000 đồng, nhưng quản lý tiền và điện thoại để đảm bảo thi hành án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nguyễn Thị Thu Tr khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố.

Khi trình bày lời nói sau cùng Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2], Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của những người chứng kiến là anh Trần Tuấn Đ, chị Phạm Tươi, chị Nguyễn Hà M và anh Mai Danh Q được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định số 433/KLGĐ-PC09 ngày 17/12/2018 cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 16/12/2018, tại khu vực nhà hàng Ruby, đường Ng, tổ 37, phường Tr, thành phố T, tỉnh T, Nguyễn Thị Thu Tr có hành vi tàng trữ trong túi áo khoác đang mặc 01 túi ma túy, loại MDMA, có khối lượng 4,0088 gam và 02 túi loại Ketamine, có khối lượng 1,1652 gam, mục đích để bán kiếm lời bị Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra cùng ngày qua khám xét chỗ ở Nguyễn Thị Thu Tr còn tàng trữ tại trái phép tại Phòng số B411, ký túc xá sinh viên, tổ 39, phường Q, thành phố T, tỉnh T 8,9230 gam ma túy, loại Ketamine và 7,3938 gam ma túy, loại MDMA, mục đích để bán kiếm lời.

Bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, hiểu rõ tác hại của ma túy và hành vi mua bán chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó của Nguyễn Thị Thu Tr đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố là có căn cứ.

Viện dẫn Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) ……..

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cẩm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với công cuộc đấu tranh kiên quyết của Đảng và Nhà nước ta về bài trừ tệ nạn ma túy ra khỏi xã hội nên tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, cần xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng huy hiệu trong chiến dịch Hồ Chí Minh nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử lên mức án tương xứng đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết nhàm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng chống tội phạm nói chung.

[5] Bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với mục đích thu lợi bất chính nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự để sung ngân sách nhà nước.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một phụ nữ khoảng 40 tuổi (nhưng không biết tên, địa chỉ) tại khu vực công viên Lê Quý Đ, phường Đ, thành phố T nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là chất thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Các tài sản quản lý của bị cáo gồm: 01 điện thoại Iphone màu đen, 02 chiếc túi xách giả da màu nâu và số tiền 4.000.000 đồng, xét thấy tài sản này không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo, nhưng quản lý số tiền và điện thoại để đảm bảo thi hành án.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm p khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 50; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; khoản 1 Mục I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 17/12/2018.

Hình phạt bổ sung: Phạt Nguyễn Thị Thu Tr 7.000.000 (bảy triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu 07 (bảy) chiếc phong bì niêm phong trong có chứa chất ma túy, bên ngoài ghi cùng số 433/KLGĐ - PC 09, mẫu vật hoàn trả sau giám định để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, 02 túi xách giả da màu nâu và số tiền 4.000.000 (bốn triệu) đồng. Nhưng quản lý tiền và điện thoại để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng và tài sản đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình quản lý có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản và biên lai thu tiền số 0001433 ngày 04/4/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thị Thu Tr và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (bà Trịnh Thị H) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 08/5/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HSST ngày 08/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về