Bản án 711/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 711/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1466/2018/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2018, về tranh chấp ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 120/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1./ Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Mỹ D - sinh năm: 1978

Thường trú: 989/19/5 Tỉnh lộ V, khu phố X, phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh.

Cư trú: 2A tổ 3, đường M (hẻm 244) khu phố N, phường P, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

2./ Bị đơn: Ông Đoàn Công B - sinh năm: 1975

Thường trú: 989/19/5 Tỉnh lộ V, khu phố X, phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tranh tụng tại Tòa bà Hồ Thị Mỹ D là nguyên đơn trình bày: Tại Tòa hôm nay tôi xác nhận tôi và ông Đoàn Công B tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 2003, có tổ chức hỏi cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi lập gia đình bà về sống chung bên gia đình chồng tại phường Bình Chiểu quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo bà cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do đôi bên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông B thiếu trách nhiệm với gia đình, vợ chồng thường xuyên cãi vã, dẫn đến cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc, đến khoảng cuối năm 2007 bà bỏ về nhà cha mẹ sinh sống, sau đó do gia đình tác động hàn gắn và vì con còn nhỏ nên bà có trở về hàn gắn đoàn tụ gia đình, tuy nhiên cuộc sống chung của vợ chồng không được hạnh phúc lắm, nguyên nhân ông B vẫn rượu chè thiếu trách nhiệm với gia đình nên vợ chồng thường xuyên bất hòa cãi vã, cuộc sống không mang lại hạnh phúc. Kể từ tháng 12/2017 bà bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống đôi bên ly thân từ đó cho đến nay. Thời gian ly thân đôi bên có điều kiện để hàn gắn gia đình nhưng không có kết quả. Xét thấy tình cảm thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được khả năng đoàn tụ sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó bà có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn.

Về con chung: Có một chung tên Đoàn Chí Bảo sinh ngày 21/02/2004. Hiện tại bà đang trực tiếp nuôi con, sau khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, việc cấp dưỡng nuôi con chung bà tự nguyện không yêu cầu.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Về nợ chung: Không có.

Ông Đoàn Công B là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để đến Tòa giải quyết vụ kiện nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do, theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông B.

Tại phiên Tòa bà D xác định cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó bà vẫn giữ yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Đoàn Công B.

Về con chung: Bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Về nợ chung: Không có.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, về tuân theo pháp luật: Tòa án nhân dân quận Thủ Đức và thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, về thụ lý vụ án, ra thông báo thụ lý vụ án, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự thủ tục của pháp luật quy định, về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Bà Hồ Thị Mỹ D và ông Đoàn Công B tự nguyện kết hôn vào năm 2003 có hỏi cưới và có đăng ký kết hôn, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 35, quyển số 1 ngày 02/4/2003 do Ủy ban nhân dân phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cấp là cơ sở xác định hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Ông B hiện đang sinh sống và cư trú tại phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, đời sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, bà D là một bên đương sự, có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Hồ Thị Mỹ D, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bà Hồ Thị Mỹ D và ông Đoàn Công B tự nguyện kết hôn vào năm 2003, cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2007, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính theo lời trình bày của bà D do đôi bên bất đồng quan điểm sống, ông B thiếu trách nhiệm với gia đình, từ đó dẫn đến cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc. Kể từ tháng 12 năm 2017 cho đến nay cả hai đã sống ly thân, thời gian ly thân cả hai có tạo điều kiện để đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả. Căn cứ vào kết quả xác minh của Công an phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức có nội dung: “Đương sự Đoàn Công B sinh năm 1975 đăng ký hộ khẩu thường trú tại 989/19/5 đường Tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức từ năm 1978 và hiện ở tại địa chỉ trên” Ông B đã được Tòa án triệu tập đến Tòa, để giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật, nhưng ông B vẫn vắng mặt không lý do, điều này chứng tỏ ông B không quan tâm đến việc yêu cầu xin ly hôn của bà D, từ đó cho thấy thực tế tình trạng hôn nhân của đôi bên đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, đời sống chung không thể kéo dài, khả năng đoàn tụ không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, xét hiện tại đôi bên đã sống ly thân, việc bà D có đơn yêu cầu được ly hôn với ông B là có căn cứ, phù hợp với Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[3] về con chung: Xét hiện nay bà D đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành, sau khi ly hôn bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con việc cấp dưỡng nuôi con chung bà tự nguyện không yêu cầu là hoàn toàn tự nguyện không trái với quy định của pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của con chung, theo Điều 81; 82; 83; 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Căn cứ vào lời trình bày của bà D tại phiên tòa hôm nay về tài sản chung có một căn nhà do vợ chồng cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận, tuy nhiên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không xét. Ông B và bà D có quyền khởi kiện tranh chấp tài sản sau khi ly hôn trong vụ án khác nếu có yêu cầu.

[5] Về nợ chung: Không có.

[6] Về án phí: Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015 bà Hồ Thị Mỹ D phải nộp 300.000 đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đ (Ba trăm ngàn đồng) bà D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0023314 ngày 28/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Hồ Thị Mỹ D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 21, Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 điều 147; Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Khoản 1 Điều 273; Điều 482 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Tuyên xử:

1-/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn:

a-/ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Hồ Thị Mỹ D và ông Đoàn Công B.

b-/ Về con chung: Giao bà Hồ Thị Mỹ D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Đoàn Chí Bảo sinh ngày 21/02/2004. Việc cấp dưỡng nuôi con chung bà D tự nguyện không yêu cầu.

Không ai được quyền ngăn cản việc thăm nom chăm sóc và giáo dục con chung, vì quyền lợi mọi mặt của người con khi cần thiết có thể thay đổi người nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

c-/ Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

d-/ Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2- / Về án phí: Bà Hồ Thị Mỹ D phải nộp 300.000 đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đ (Ba trăm ngàn đồng) bà D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0023314 ngày 28/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Hồ Thị Mỹ D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3- / Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014”;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 711/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:711/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về