Bản án 71/2018/DS-ST ngày 21/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN C, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 71/2018/DS-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 62/2018/TLST-DS ngày 23 tháng 3 năm 2018 về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2018/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H (tên gọi khác là Kim L), sinh năm 1976; cư trú tại: Tổ 2, ấp Tân T, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim A, sinh năm 1966 và ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1961; cư trú tại: Tổ 2, ấp Tân C, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Tắc Pào H, sinh năm 1961; cư trú tại: Ấp Tân D, xã Tân H, huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20-3-2018 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Ngày 18-01-2017, bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q vay của bà số tiền 50.000.000 đồng để làm vốn mua bán, giấy vay tiền do bà viết, bà Kim A, ông Q ký tên ghi họ và tên, không tính tiền lãi và hẹn trả trong thời gian 06 tháng. Sau khi vay tiền, bà Kim A và ông Q có trả nợ cho bà được 02 lần số tiền 17.000.000 đồng, nhưng do anh Nguyễn Văn V là con trai của bà Kim A, ông Q trực tiếp trả, cụ thể như sau: Lần thứ nhất, anh V trả số tiền 15.000.000 đồng, bà có viết giấy nhận tiền giao cho anh V; lần thứ hai, anh V trả số tiền 2.000.000 đồng, không làm giấy, thời gian trả nợ ngày nào bà không nhớ và ngưng luôn cho đến nay.

Bà H yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Kim A và ông Q có trách nhiệm trả cho bà số tiền vay còn nợ 33.000.000 đồng, bà không yêu cầu tính tiền lãi.

Lời khai của ông Tắc Pào H: Giữa ông với bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q là người cùng địa phương nên quen biết nhau. Khoảng thời gian cách nay hơn 01 năm, bà Kim A và ông Q có nhờ ông xem ai quen biết có tiền giới thiệu ông, bà đến vay để làm vốn mua bán nên ông giới thiệu đến nhà bà H vay số tiền 50.000.000 đồng, khi vay tiền bà Kim A và ông Q ký tên nhận nợ, ông là người ký tên làm chứng. Sau đó, ông có nghe bà H nói lại bà Kim A và ông Q có nhờ con ruột là anh V trả tiền vay cho bà H được 02 lần với số tiền 17.000.000 đồng.

Đối với bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Tân C đã nhiều lần đến tống đạt giấy triệu tập mời bà Kim A, ông Q để làm việc, nhưng ông, bà không đến nên Tòa án trực tiếp đến nhà tống đạt các văn bản tố tụng và lấy lời khai nhưng bà Kim A và ông Q vắng mặt nên không lấy lời khai được, do đó Tòa án kết hợp với chính quyền địa phương tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bà H yêu cầu bà Kim A, ông Q trả cho bà số tiền vay còn nợ 33.000.000 đồng; không yêu cầu tính tiền lãi.

Bà Kim A, ông Q vắng mặt.

Ông Tắc Pào H trình bày, ông là người giới thiệu bà Kim A và ông Q đến nhà vay của bà H số tiền 50.000.000 đồng và ông ký tên làm chứng vào giấy vay tiền ngày 18-01-2017.

Ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không chấp hành.

- Về nội dung: Ngày 18-01-2017, bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q ký giấy vay của bà Nguyễn Thị H số tiền 50.000.000 đồng có ông Tắc Pào H là người giới thiệu bà Kim A và ông Q đến bà H vay tiền ký tên làm chứng; sau khi vay tiền bà Kim A và ông Q thông qua con trai là anh Nguyễn Văn V trả cho bà H 02 lần được số tiền 17.000.000 đồng, nên còn nợ lại 33.000.000 đồng cho đến nay. Căn cứ vào Điều 463, 466 Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016 của Quốc Hội đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H yêu cầu bà Kim A và ông Q trả số tiền 33.000.000 đồng, ghi nhận bà H không yêu cầu tính tiền lãi. Bà Kim A và ông Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, thấy rằng:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị H là nguyên đơn trong vụ án thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án; bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt bà Kim A, ông Q.

[2] Về nội dung: Ngày 18-01-2017, bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q ký giấy vay của bà Nguyễn Thị H số tiền 50.000.000 đồng, mục đích vay tiền để làm vốn mua bán, không thỏa thuận lãi suất và hẹn đến ngày 18-7-2017 trả nợ. Sau khi vay tiền, ông Q và bà Kim A có nhờ con ruột là anh Nguyễn Văn V trực tiếp trả tiền vay cho bà H 02 lần được số tiền 17.000.000 đồng, trong đó lần thứ nhất anh V trả 15.000.000 đồng, bà H có làm giấy nhận tiền giao cho anh V, lần thứ hai anh V trả 2.000.000 đồng, bà H nhận tiền nhưng không làm giấy.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q cố tình tránh mặt, nên Tòa án không làm việc được; theo lời khai của bà Nguyễn Thị H, ngày 27-7-2018 Tòa án kết hợp với chính quyền địa phương đến trực tiếp tại nhà anh Nguyễn Văn V ngụ ấp Tân Cường, xã Tân Hà là con trai của bà Kim A và ông Q để xác minh về việc bà Kim A và ông Q trả cho bà H số tiền 17.000.000 đồng, nhưng anh V không trình bày bất cứ thông tin gì đối với nội dung Tòa án cần làm việc (BL số 51).

Giấy vay tiền ngày 18-01-2017, khi bà Kim A và ông Q ký vay của bà H số tiền 50.000.000 đồng do ông Tắc Pào H là người giới thiệu và ký tên người làm chứng (BL số 38); tại biên bản lấy lời khai ông Trần Văn Tr là Trưởng Ban công tác Mặt trận ấp Tân C khai, khi ông đến nhà mời ông Q, bà Kim A đến Văn phòng ấp giải quyết theo đơn yêu cầu của bà H về tiền nợ, thì bà Kim A trình bày cho ông biết là có vay của bà H số tiền 50.000.000 đồng để làm vốn buốn bán gỗ, do làm ăn thất bại nên chỉ trả được mười mấy triệu, còn nợ bà H hơn 30.000.000 đồng, nhưng không đến để giải quyết (BL số 44). Từ những chứng cứ trên xác định, bà Nguyễn

Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q có vay của bà H số tiền 50.000.000 đồng và đã trả được 17.000.000 đồng, còn nợ 33.000.000 đồng, nên bà Kim A và ông Q có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền trên.

Bà H không yêu cầu bà Kim A và ông Q trả tiền lãi, nên ghi nhận.

[4] Tiền tạm ứng án phí, tiền an phi dân sự sơ thẩm được giải quyết theo quy định tại Điều 144, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H. Buộc bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền vay 33.000.000 đồng (ba mươi ba triệu đồng).

Ghi nhận bà Nguyễn Thị H không yêu cầu bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q trả tiền lãi.

Kể từ ngày bà Hoa có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Kim A và ông Q chưa thi hành xong số tiền trên, thì bà Kim A và ông Q còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất được quy định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kim A và ông Nguyễn Văn Q phải chịu 1.650.000 đồng (một triệu, sáu trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại bà H 825.000 đồng (tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0025310, ngày 23-3-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân C, tỉnh Tây Ninh.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Đối với các đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi đương sự cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2018/DS-ST ngày 21/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:71/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về