Bản án 71/2019/HSST ngày 13/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 71/2019/HSST NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2019/HSST ngày 03 tháng 6 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 04/6/2019 đối với bị cáo:

Quàng Văn M; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 08/9/1985 tại: huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N H, xã P T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Quàng Văn S, sinh năm: 1964 và bà Quàng Thị M, sinh năm: 1960; bị cáo có vợ là Lường Thị S, sinh năm: 1988 ( Đã ly hôn ) và có 02 con ( Lớn 13 tuổi, nhỏ 08 tuổi ); tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 02/8/2016, bị cáo Quàng Văn M bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng. Trong vụ án này bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 21/02/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 21/02/2019, tại khu vực bản Pá, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác đội Cảnh sát hình sự Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang đối tượng Quàng Văn M ( Sinh năm: 1985, trú tại: Bản N H – Púng Tra - Thuận Châu - Sơn La ) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm:

- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa 01 gói ni lon màu trắng có chứa bột cục màu trắng ( Theo đối tượng M khai nhận là Heroine ) và 01 gói ni lon màu trắng bên trong chứa 31 viên nén hình trụ tròn màu hồng ( Theo đối tượng M khai nhận là Hồng phiến );

- 01 ví da màu đen đã qua sử dụng;

- 02 tờ tiền Polime mỗi tờ đều có mệnh giá 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng );

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu trắng đen, đã qua sử dụng. Kết quả cân tịnh số bột màu trắng thu giữ của đối tượng M có khối lượng 1,59 gam, trích rút 0,10 gam ký hiệu M1 làm mẫu vật gửi giám định, số còn lại 1,49 gam ký hiệu M2 đã niêm phong.

Kết quả cân tịnh 31 viên nén hình trụ tròn màu hồng thu giữ của đối tượng M có khối lượng 3,17 gam, trích rút 1,03 gam ký hiệu M3 làm mẫu vật gửi giám định, số còn lại 2,14 gam ký hiệu M4 đã niêm phong.

Tại bản Kết luận giám định số: 498/KLMT ngày 25/02/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu vật gửi giám định ký hiệu M1 là chất ma túy; Loại chất Heroin. Khối lượng chất Heroine tạm giữ của Quàng Văn M là 1,59 gam. Mẫu vật gửi giám định ký hiệu M3 là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine. Khối lượng chất Methamphetamine tạm giữ của Quàng Văn M là 3,17 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 609/KLGĐ ngày 02/3/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: 02 tờ tiền VNĐ mệnh giá 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ) là tiền thật.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Quàng Văn M đã khai nhận như sau:

Khong 18 giờ 00 phút ngày 21/02/2019, trong khi Quàng Văn M đang ở nhà mình ( bản N H – P T – Thuận Châu) thì có một người tên Mai ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La gọi điện thoại đến nhờ M dẫn đi mua ma túy hộ, Mai hứa trả công cho M 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng ) kèm một ít ma túy để sử dụng và M đã nhận lời đề nghị của Mai. Sau khoảng 30 phút thì Mai tới nhà M, đưa cho M 400.000đ ( Gồm 02 tờ mệnh giá 200.000đ ) tiền công dẫn đi mua hộ ma túy như đã thỏa thuận, sau khi nhận 400.000đ thì M lấy từ ví của mình ra 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ trả lại cho Mai. Tiếp đó Mai điều khiển xe máy chở theo M đi mua ma túy, khi đến bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, thì M chỉ cho Mai vào nhà một người phụ nữ tên S ( Có con đầu tên T ) còn M thì đứng đợi Mai ở ngoài đường. Sau khoảng 15 phút thì Mai quay trở ra bảo Muôn cầm hộ 01 ni lon màu trắng bên trong có 02 gói ma túy ( Gồm Heroine và hồng phiến ). M cầm gói ma túy Mai đưa ở bên tay phải rồi ngồi sau xe máy để Mai điều khiển về nhà. Trên đường về đến đoạn khu vực bản Pá, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu thì gặp tổ công tác Công an huyện Thuận Châu nghi ngờ yêu cầu dừng xe máy để kiểm tra ma túy, thấy vậy M đã thả gói ma túy xuống mặt đường để tẩu tán vật chứng, còn Mai thì tăng ga xe máy bỏ chạy và tổ công tác đã kịp thời khống chế bắt giữ được M cùng với vật chứng là gói ma túy. Về phía đối tượng điều khiển xe máy tên Mai thì bỏ chạy thoát.

Tại bản Cáo trạng số: 73/CT-VKS ngày 03/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Quàng Văn M về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn M phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy và xử phạt bị cáo mức án từ 06 đến 07 năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Đề nghị áp dụng các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 1,49 gam Heroin và 2,14 gam Methamphetamine ( Số còn lại sau khi trích rút 0,10 gam Heroin và 1,03 gam Methamphetamine gửi giám định ) + 01 chiếc ví da của bị cáo không còn giá trị sử dụng.

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Vật chứng là số tiền 400.000đ ( Bốn trăm nghìn đồng ) liên quan đến hành vi phạm tội + 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Tại phiên tòa bị cáo M có ý kiến: Thừa nhận ngày 21/02/2019 đã thực hiện hành vi dẫn đường cho đối tượng tên Mai đi mua ma túy để được hưởng lợi khoản tiền 300.000đ và một lượng ma túy sử dụng cho bản thân, bị phát hiện bắt quả tang khi đang cầm giữ gói ma túy gồm 1,59 gam Heroine và 3,17 gam Methamphetamine. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc bị cáo thành khẩn khai nhận mà giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 21/02/2019, bị cáo Quàng Văn M ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã thực hiện hành vi dẫn đường, chỉ địa điểm cho người khác mua bán một lượng ma túy gồm: 1,59 gam Heroine và 3,17 gam Methamphetamine để được hưởng lợi tiền công 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng ) và một lượng ma túy để sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được mọi hành vi tiếp tay cho việc mua bán trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện vì hám lời vật chất. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Kết luận giám định về vật chứng thu giữ là ma túy; số tiền công 300.000đ và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Quàng Văn M đã phạm vào tội: Mua trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến bảy năm ”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi: tội phạm Mua bán trái phép chất ma túy bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo là nguyên nhân làm lây lan tệ nạn nghiện hút trong xã hội gia tăng, gián tiếp làm phát sinh các tội phạm khác trong xã hội, gây mất trật tự an ninh ở địa phương và tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng. Do đó cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội. Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự có mức hình phạt từ 02 đến 07 năm tù là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về tính chất tội phạm và hình phạt.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết nhân thân: Xét bị cáo là người có nhân thân xấu, bởi đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tuy nhiên sau thời gian chấp hành biện pháp cai nghiện bắt buộc vẫn không chịu hoàn lương mà cố ý phạm tội. Do vậy cần áp dụng khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự; để xem xét áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc đối với bị cáo.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn khai nhận tội. Nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh thể hiện bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[9] Xử lý vật chứng:

- Vật chứng là 1,49 gam Heroin và 2,14 gam Methamphetamine ( Số còn lại sau khi trích rút 0,10 gam Heroin và 1,03 gam Methamphetamine gửi giám định ) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc ví da tạm giữ của bị cáo, xét không còn giá trị sử dụng. Cần áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 400.000đ ( Gồm 02 tờ 200.000đ ) tạm giữ, theo bị cáo khai do đối tượng Mai trả tiền công mua hộ ma túy theo thỏa thuận là 300.000đ, tuy nhiên do không có tiền lẻ nên đã đưa bị cáo 02 tờ tiền mệnh giá 200.000đ và bị cáo đã dùng 100.000đ trong ví trả lại đối tượng Mai. Xét giao dịch trả tiền cho việc mua bán hộ ma túy nêu trên trái pháp luật. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; để tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 400.000đ nêu trên cùng với chiếc điện thoại di động bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

[10] Đối với lời khai của bị cáo về đối tượng Mai nhờ bị cáo dẫn đường đi mua ma túy. Kết quả điều tra do bị cáo không cung cấp được thông tin cụ thể về tên họ? tuổi ? và địa chỉ ? cụ thể. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. [11] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do đối tượng Mai là người trực tiếp mua tại nhà người phụ nữ tên S ( Có con đầu tên T ) ở bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu. Kết quả điều tra xác định tại bản Lọng Cại có 01 người phụ nữ tên Lường Thị S, sinh năm 1981, tuy nhiên hiện đối tượng không có mặt tại nơi cư trú. Do vậy kiến nghị cơ quan Điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý khi có căn cứ.

[12] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

[13] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 251- điểm s khoản 1 Điều 51- Điều 50, 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn M phạm tội: Mua trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn M 06 ( Sáu ) năm 06 ( Sáu ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 21/02/2019 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng các điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 1,49 gam (Một phẩy bốn mươi chín gam) chất bột màu trắng là Heroin kí hiệu M2 + 2,14 gam (Hai phẩy mười bốn gam) là 21 viên nén hình trụ tròn màu hồng là ma túy, loại chất Methamphetamine kí hiệu M4 + 03 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho vào cùng 01 phong bì thư niêm phong, dán kín, mặt trước ghi “ Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn M - Mua bán trái phép chất ma túy bắt ngày 21/02/2019 ”; 01 ví da màu đen đã qua sử dụng cũ.

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động NOKIA, vỏ màu trắng, số seri 252687041499334, đã qua sử dụng cũ; 02 tờ tiền polime mỗi tờ đều có mệnh giá 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ) có số seri lần lượt là: SN 11380604; RG 14481403. Được niêm phong trong cùng một phong bì thư màu trắng có niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ).

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HSST ngày 13/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:71/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về