Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 72/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 174/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lâm Mỹ C - Sinh năm 1966 - Địa chỉ: Tổ 2, khu phố 3, thị trấn PV, huyện PG, tỉnh Bình Dương. (Vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc Đ - Sinh năm 1975 - Địa chỉ: Ấp 4, xã MTB, huyện H, tỉnh Long An (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 31 tháng 7 năm 2018, các văn bản tiếp theo, nguyên đơn bà Lâm Mỹ C trình bày và yêu cầu:

Bà và ông Nguyễn Ngọc Đ cưới nhau năm 1991, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MTB ngày 22-7-2002; Chung sống hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn, do ông C không chung thủy, không có trách nhiệm với gia đình, ăn chơi, ngược đãi bà; Vợ chồng đã ly thân từ năm 2003.

- Về hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Ngọc Đ;

- Về nuôi con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc P, sinh ngày 19-5- 1996, đã thành niên, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Diện tích đất 6.284m2 thửa đất số 649, tờ bản đồ số 4, xã MTB, nhưng bà không yêu cầu Tòa án giải quyết mà để vợ chồng tự thỏa thuận.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngày 15-10-2018, bà Lâm Mỹ C có đơn xin xét xử vắng mặt;

Bị đơn là ông Nguyễn Ngọc Đ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Lâm Mỹ C khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Ngọc Đ, Tòa án nhân dân huyện H tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bà C có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà C theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

[3] Trong thời gian Tòa án thụ lý vụ án, bị đơn ông Nguyễn Ngọc Đ được niêm yết hợp lệ các thủ tục tố tụng của Tòa án, nhưng không có ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông, không có mặt để tham gia hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà C theo quy định tại khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, ông Đ không được quyền khiếu nại về việc cung cấp chứng cứ, tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa, vì ông không có mặt theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự theo quy định pháp luật.

[4] Nguyên đơn không có đơn rút yêu cầu khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận được với nhau việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

[5] Xét về hôn nhân:

[5.1] Bà C và ông Đ chung sống từ năm 1991, đăng ký kết hôn ngày 22-7-2002, tại Ủy ban nhân dân xã MTB, huyện H, tỉnh Long An. Quan hệ hôn nhân giữa bà C và ông Đ là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.

[5.2] Xét yêu cầu ly hôn của bà C: Bà C không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh cho trình bày và yêu cầu của bà là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, xét bà C và ông Đ xảy ra mâu thuẫn và ly thân từ năm 2003, hiện vẫn sống ly thân, tự mỗi người lo cho bản thân, không quan tâm chăm sóc nhau. Mâu thuẫn giữa bà C và ông Đ đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc bà C yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên chấp nhận. Ông Đ không có ý kiến nên không có căn cứ xem xét.

[6] Về nuôi con chung: Bà C trình bày có 01 con chung là Nguyễn Ngọc P, sinh ngày 19-5-1996, đã thành niên nên không yêu cầu nên không đề cập giải quyết là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Ông Đ không có ý kiến, nên không có căn cứ xem xét.

[7] Về chia tài sản chung: Bà C trình bày có diện tích đất 6.284m2 thửa đất số 649, tờ bản đồ số 4, xã MTB, nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết mà để vợ chồng tự thỏa thuận, nên không đề cập giải quyết; Ông Đ không có ý kiến, nên không có căn cứ xem xét; Nếu xảy ra tranh chấp, đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[8] Về chia nợ chung: Bà C trình bày không có, ông Đ không có ý kiến, nên không đề cập giải quyết; Nếu xảy ra tranh chấp, đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm, căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xét thấy: Bà C là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp, bà C đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm; Ông Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều39, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 147 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Các Điều 56 và 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Bà Lâm Mỹ C được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc Đ.

2. Về nuôi con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ngọc P, sinh ngày 19-5- 1996, đã thành niên nên, đương sự không có yêu cầu, không đề cập giải quyết.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: Đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lâm Mỹ C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp (Biên lai thu số 0008446 ngày 14-8-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H), bà C đã nộp đủ án phí.

5. Các đương sự vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:72/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về